Nourishing soul, Broadening mind

Góp Ý

Từ Phú Xuân đến Huế - tập 3
Update Date: 04/18/2012

Bước chân vào vùng kháng chiến, tôi xem như làm lại cuộc đời. Như xóa đi ván cờ đang đánh và sắp lại cho một ván cờ mới. Tất cả bằng cấp của 14 năm đèn sách không còn giá trị gì với tôi nữa. Tôi khai lại lý lịch đúng ngày tháng năm sinh của mình, đúng tên cha sinh mẹ đẻ ra tôi.

 Tôi đi chân đất, gùi hàng hai ba chục ký lô lương thực trên lưng, đi hàng hai ba ngày đường. Chặt cây, dựng nhà, đào hầm trú ẩn thành thạo như mọi người. Cán bộ kháng chiến khen tôi là tiểu tư sản mà lao động giỏi. Họ không biết hồi tuổi còn thơ ở núi rừng Túy Sơn, Đà Lạt, tôi đã lao động giỏi hơn thế nhiều. Ngay từ những ngày đầu tôi đã nếm được sự ác liệt của bom đạn Mỹ. Suốt thời gian kháng chiến tôi đã suýt chết hàng chục lần vì bom đạn Mỹ, rốt rét, mưa lũ. Có nhiều tuần lễ chỉ sống bằng rau rừng. Nhiều tháng sống dưới vòm lá rừng xanh không thấy mặt trời. Nhưng thử thách lớn nhất của tôi là sự phân biệt giữa người tiểu tư sản thành phố hoạt động trong môi trường đa số là vô sản nông thôn. Có lần tôi đã khóc nức nở vì sự phân biệt đó. Nhưng rồi nhờ tôi phát hiện được cái giá trị đích thực của người vô sản trong kháng chiến. Không phải là người lao động, người vô sản thì không thể theo đuổi cuộc chiến tranh chống Mỹ được. Vì nó quá ác liệt. Tôi cám ơn họ. Nhờ quyết tâm chống Mỹ và sự tự trọng của một sinh viên xuất thân trong các phong trào đấu tranh ở các đô thị miền Nam Việt Nam của tôi, rồi ra cái sự phân biệt ấy mờ dần và tôi cũng đã trở thành “đồng chí” của những người vô sản. Nhiều khi tôi nghĩ vui: Tuổi thơ nghiệt ngã của tôi là thời gian rèn luyện chuẩn bị cho tôi đi kháng chiến sau nầy.

Tôi tưởng ra đi là bỏ lại đàng sau tất cả những gì mình đã có. Không ngờ tôi đã mang theo tôi hành trang thơ trong lòng. Với hồn thơ sẵn có, tôi đặt tên cho từng loài hoa dại, đặt tên cho từng dòng suối, khúc sông tôi đi qua. Tôi cũng tìm được một nàng thơ giữa những năm đói khát, ác liệt nhất ấy. Một mình hành quân nhiều ngày trên đường rừng, tôi vừa đi vừa làm thơ. Tối ngủ lại ở trạm đường dây tôi chép thơ vào sổ tay. Thơ trong tập Đi chân đất của tôi ra đời trong hoàn cảnh như thế. Tôi đi qua nhiều xóm làng ở phía nam Huế. Tôi đọc thơ cho các bà mẹ ở Truồi, ở Nước Ngọt, cho bộ đội, cho thanh niên ở Phú Lộc nghe. Tôi được các bà mẹ quê xem tôi như người thân trong gia đình. Thơ trở thành người bạn đường, người “đông chí” của tôi. Tôi phải làm việc và sống xứng đáng với nàng thơ và với thơ tôi.

Nhiều bạn bè của tôi đã hy sinh. Tôi không dám nghĩ kháng chiến thành công tôi còn sống để về với Huế. Tôi chỉ ước mong được chết đúng nghĩa với hai từ “vì nước” mà thôi. Không ngại cái chết nên tôi luôn được cầm bút ra “phía trước”, có mặt trong các chiến dịch ác liệt nhất của chiến trường Thừa Thiên. Nhưng may mắn không cho tôi chết nên tôi được hưởng cái hạnh phúc của ngày đất nước thống nhất. Những nghiệt ngã, những thử thách, những lần cận kề cái chết, niềm vui đất nước thanh bình là những trải nghiệm hiếm có, là vốn sống cho cuộc đời cầm bút của tôi sau nầy.

Nguyễn Đắc Xuân
Other News