Nourishing soul, Broadening mind

Góp Ý

Trích đọc Pháp Thuật - Kỳ 2: Sarah và Silas
Update Date: 11/10/2006

 
NXBT: Người con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy, có tên là Septimus Heap, ngay khi sinh ra đã bị bà đỡ ăn cắp mất và báo là đã chết. Vào cùng đêm đó, cha của cậu là Silas Heap đi ngang qua rừng cây và thấy trong tuyết có một bọc đựng một bé gái mới sinh mang cặp mắt vào tím. Ông Heap mang bé gái đó về nhà, đặt tên là Jenna, nuôi nấng và yêu thương như con gái mình.
Bé gái bí mật đó là ai? Và chuyện gì xảy ra với cậu bé sơ sinh bị đánh cắp?
Tập đầu tiên của bộ sách hấp dẫn này được Angie Sage dẫn dắt một cách kỳ ảo và hài hước, với đầy những nhân vật thần bí lạ lùng và hấp dẫn, những độc dược, những câu thần chú chưa từng thấy, những thân phận bí ẩn, những câu chuyện bất ngờ vào phút chót.
Mời bạn đọc trích đoạn sách với kỳ 2:

Sarah và Silas

Đứa bé trong bọc gia nhập gia đình Heap và được đặt tên là Jenna, theo tên mẹ Silas.

Khi Jenna tới, thằng út nhất trong đám, thằng Nicko, chỉ mới lên hai, và nó nhanh chóng quên biến cậu em Septimus của mình. Mấy thằng lớn hơn cũng từ từ quên luôn. Chúng yêu đứa em gái bé bỏng của mình, và hay tha về nhà cho cô bé đủ thứ báu vật từ lớp học Pháp thuật ở trường.

Sarah và Silas hiển nhiên là không thể nào quên được Septimus. Silas luôn tự đổ lỗi cho mình vì đã để Sarah ở nhà một mình trong khi ông tới chỗ bà lang bốc thuốc cho thằng bé. Sarah thì cứ tự dằn vặt mình vì tất cả mọi thứ. Mặc dầu vậy, bà gần như không thể nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy. Sarah biết mình đã cố thổi sự sống trở lại cho con và đã thất bại. Bà cũng nhớ mình đã nhìn thấy bà mụ quấn băng bé Septimus của bà kín từ đầu tới chân rồi vụt ra cửa, ngoái lại hét, “Chết rồi!”

Tất cả những gì Sarah nhớ được chỉ có thế.

Nhưng Sarah nhanh chóng yêu thương bé gái nhỏ hệt như bà đã yêu thương Septimus. Có thời gian bà cứ nơm nớp lo sợ kẻ nào đó sẽ tới và cũng sẽ giật Jenna đi mất, nhưng nhiều tháng trôi qua, khi Jenna lớn lên thành một bé gái bụ bẫm, hay ọ ẹ, Sarah mới dịu bớt và gần như thôi không lo lắng nữa.

Cho đến một ngày kia, chị bạn thân Sally Mullin, gần như đứt hơi chạy đến bậu cửa nhà bà. Sally Mullin là một trong những người biết tất cả mọi thứ diễn ra trong Lâu đài. Đó là một phụ nữ nhỏ thó, tất bật, tóc lưa thưa, hoe hoe lúc nào cũng lòi hẳn ra khỏi chiếc nón đầu bếp cáu bẩn. Gương mặt Sally tròn xoe, tươi cười, đỏ ửng vì cứ phải nướng bánh luôn tay, quần áo thì bao giờ cũng lấm tấm bột.

Sally điều hành một quán ăn xinh xắn ở ngay trên cầu phao, ngay bên sông. Tấm biển treo trên cánh cửa quán thông báo:

Quán rưỢu và trà cỦa Sally Mullin

Có sẴn phòng trỌ sẠch sẼ

CẤm mang súng vào

Không có gì bí mật nổi trong quán ăn nhỏ của Sally Mullin. Bất cứ vật gì và bất cứ người nào đến Lâu đài bằng đường thủy đều bị để ý và đều được bình phẩm, và hầu hết ai đến Lâu đài cũng thích đến bằng thuyền. Trừ Silas ra, chẳng ai ưa những lối mòn tăm tối xuyên qua cánh rừng bao quanh Lâu đài. Đêm đến, cánh rừng vẫn còn vô vàn chồn cáo và lúc nhúc những thứ cây ăn thịt người. Rồi lại còn những phù thủy Wendron, một tộc người quanh năm túng tiền và khét tiếng là hay giăng bẫy những khách bộ hành khinh suất, rồi bỏ lại họ chỉ còn áo với tất chân.

Quán ăn nhỏ của Sally Mullin là một mái nhà nhộn nhịp, khói nghi ngút, đậu chênh vênh trên mặt nước. Thuyền bè đủ mọi kiểu dáng và kích cỡ thường bỏ neo bên chiếc cầu phao của quán, từ đấy tất cả mọi loại người cùng thú vật loạng choạng bước ra. Hầu hết bọn họ đều quyết định lấy lại sức sau cuộc hành trình vất vả bằng cách đánh chén ít nhất là một cốc bia cay xè và một lát bánh lúa mạch nướng của Sally, và kể những tin ngồi lê đôi mách nóng hổi nhất. Và bất cứ cư dân nào của Lâu đài có chừng nửa tiếng đồng hồ rảnh rỗi cùng một cái dạ dày đánh lộn lạo cũng sẽ đi xuống con đường đông đúc người lại qua, tới Cổng Cảng, qua Bãi rác Bờ sông Thơ mộng, đi dọc theo cầu phao tới Quán Trà và Rượu của Sally Mullin.

Sally tự xem mình có bổn phận mỗi tuần phải tới thăm Sarah một lần và cập nhật tất cả mọi sự việc cho bạn. Theo quan điểm của bà thì Sarah là một phụ nữ bị ngược đãi vì phải chăm sóc bảy đứa con lóc nhóc, đó là chưa kể Silas Heap, người mà hầu như Sally chẳng thấy mặt mũi bao giờ. Những câu chuyện của Sally thường liên quan đến những người mà Sarah chưa bao giờ nghe nói tới và chưa bao giờ gặp, thế nhưng Sarah luôn luôn ngóng đợi những cuộc viếng thăm của Sally và thích thú nghe kể về những gì đang diễn ra xung quanh. Tuy nhiên, lần này những gì Sally phải kể cho bà nghe lại khác hẳn. Nó nghiêm trọng hơn những câu chuyện phiếm hàng ngày, và lần này, nó lại có dính líu đến Sarah. Và, cũng là lần đầu tiên, Sarah biết được điều gì đó mà Sally không biết.

Sally lao vào phòng và đóng sập cửa lại sau lưng một cách bí ẩn.

“Tôi vừa nghe được một tin khủng khiếp,” Sally thì thào.

Sarah, vừa lúi húi lau sạch món điểm tâm dính trên mặt Jenna và khắp những chỗ mà con bé vừa phun ra, vừa cùng lúc đi theo dọn cho chú cún săn sói mới nuôi, nên không để ý lắng nghe lắm.

“Chào chị Sally,” bà nói. “Có chỗ sạch đây này. Ngồi xuống đi. Uống trà nhé?”

“Ừ. Nghe này, Sarah, cô có tin được không?”

“Tin gì, chị Sally?” Sarah hỏi, định bụng sẽ nghe phàn nàn về một vị khách cư xử không ra gì gần đây nhất trong quán.

“Nữ hoàng. Nữ hoàng băng hà rồi!”

“Hả?” Sarah há hốc miệng. Bà nhấc Jenna ra khỏi ghế của nó và bê con bé ra góc phòng, chỗ đặt cái cũi. Sarah đặt Jenna xuống cho nó ngủ. Bà tin là trẻ con cần phải tránh thật xa những tin tức xấu.

“Băng hà,” Sally rầu rầu lập lại.

“Không!” Sarah sửng sốt. “Tôi không tin. Người chỉ hơi yếu sau khi lâm bồn thôi mà. Chính vì vậy mà cho đến nay chưa ai được trông thấy Người.”

“Đó là bọn lính canh nói, đúng không?” Sally hỏi.

“Ờ, đúng,” Sarah thừa nhận, rót trà ra tách. “Nhưng họ là cận vệ của Người mà, cho nên họ phải biết chớ. Tuy nhiên tôi không hiểu sao bỗng dưng Nữ hoàng lại chọn cái bọn côn đồ ấy làm lính bảo vệ cho mình, tôi không hiểu nổi.”

Sally cầm lấy tách trà Sarah vừa đặt trước mặt.

“Ừm. Hà, ngon. À, chính xác là...” Sally hạ thấp giọng và nhìn quanh như sợ sẽ thấy một tên lính canh bất ngờ từ trong góc phòng xồ ra, dù bà không hề nhận thấy có tên nào núp giữa đống bừa bộn trong phòng nhà Heap.

“Chúng là một lũ lưu manh. Thật ra thì, chính chúng đã giết Người.”

“Giết? Người bị giết à?” Sarah thảng thốt kêu lên.

“Suỵt. Này, nghe kỹ đây...” Sally kéo ghế lại gần Sarah hơn. “Đang lan truyền một câu chuyện... và tôi vừa nghe từ miệng của con ngựa...”

“Ngựa nào thế?” Sarah hỏi với nụ cười gượng gạo.

“Bà Marcia... chứ còn ai nữa,” Sally ngồi thẳng lên và khoanh tay lại, lộ vẻ chiến thắng.

“Cái gì? Làm sao chị gặp được Pháp sư Tối thượng đó? Bà ấy ghé vào quán uống trà à?”

“Gần như vậy. Terry Tarsal ghé quán. Trước đó lão có đến Tháp Pháp sư giao đôi giày quái dị lão vừa đóng cho bà Marcia. Kêu rêu xong một hồi về gu giày của bà ấy với chuyện lão ghét cay ghét đắng rắn như thế nào, lão mới bảo rằng lão đã nghe lỏm được bà Marcia nói chuyện với một Pháp sư. Chắc là Endor, bà phù thủy mập ấy, tôi nghĩ vậy. Ừm, họ nói với nhau là Nữ hoàng bị bắn! Lính bảo hộ bắn. Một đứa trong bọn Ám Sát binh.”

Sarah không thể tin nổi những gì mình đang nghe.

“Lúc nào?” Bà thở gấp.

“Ờm, đây mới thật là kinh khủng này,” Sally thì thầm một cách kích động. “Họ nói là Người bị bắn vào ngày mà đứa con của Người ra đời. Đúng sáu tháng trước, và chúng ta chẳng biết tí gì về chuyện đó cả. Kinh khủng... kinh khủng thật. Chúng còn bắn cả Ngài Alther nữa. Chết. Chính vì thế mà bà Marcia kế vị...”

 “Ngài Alther chết?” Sarah thở hổn hển. “Tôi không tin. Không thể tin được... Cả nhà tôi đều nghĩ là ngài nghỉ hưu thôi. Silas từng là học trò của ngài nhiều năm trước mà. Ngài ấy dễ mến lắm...”

“Dễ mến?” Sally hỏi, vẻ hoài nghi, háo hức kể tiếp câu chuyện. “Này, chưa hết đâu. Bởi vì Terry đoán là bà Marcia đã cứu Công chúa và mang nó đi đâu đó. Endor và Marcia đang thắc mắc với nhau, không biết lúc này cô bé ra sao rồi. Nhưng đương nhiên khi nhận ra Terry mang giày đến thì họ ngừng nói liền. Bà Marcia rất cục cằn với lão, lão kể thế. Sau đó lão cảm thấy hơi lạ, và lão đoán là bà ta đang ếm bùa Lú lên lão, nên lão đã kịp nấp vào sau một cây cột nhà khi thấy bà lẩm bẩm, do đó bùa cũng không được trúng. Vụ ấy làm lão giận điên lên, vì lão không thể nhớ được là bà ấy đã trả tiền đôi giày cho lão hay chưa.”

Sally Mullin dừng lời để lấy hơi và hớp một ngụm trà to.

“Công chúa nhỏ tội nghiệp. Cầu Chúa phù hộ cho nàng. Chị thắc mắc không biết bây giờ nàng đang ở đâu. Chắc chắn là bị vứt trong hầm ngục nào đó ở đâu đó rồi. Không như thiên thần xinh xẻo của em đằng kia... Dạo này nó thế nào rồi?”

“Ồ, nó ngoan lắm,” Sarah đáp, bà vốn thường nói không ngớt về những cái hỉ mũi và cái răng mới mọc của Jenna, rồi về chuyện con bé ngồi chựng ra sao và tự cầm tách như thế nào. Nhưng lúc này Sarah chỉ muốn dẹp mọi sự chú ý khỏi Jenna – bởi vì sáu tháng qua Sarah không lúc nào ngưng thắc mắc con bé con mình đang nuôi này là ai, và giờ thì bà đã biết rồi.

Jenna là... Sarah nghĩ, và chắc là phải thế... là Công chúa bé con.

Đây là lần duy nhất Sarah cảm thấy vui mừng khi vẫy chào tạm biệt Sally Mullin. Bà nhìn bạn mình tất tưởi đi qua hành lang, và khi Sarah đóng cửa lại, bà thở phào một tiếng nhẹ nhõm. Rồi bà chạy bổ nhào tới chiếc cũi Jenna nằm.

Sarah ẵm Jenna lên và bế vòng bé trên tay. Jenna mỉm cười với Sarah và thò tay tóm sợi dây chuyền xinh xắn của bà.

“Ôi, Công chúa bé bỏng,” Sarah lẩm bẩm. “Mẹ vẫn biết là con rất đặc biệt mà, nhưng chưa bao giờ mẹ dám mơ rằng con chính là Công chúa.”

Đôi mắt màu tím đậm của con bé dòm chằm chằm vào mắt Sarah, và trông con bé nghiêm trang như thể đang nói, Chà, vậy là mẹ biết rồi.

Sarah dịu dàng đặt Jenna trở lại ổ. Đầu bà quay mòng mòng, hai bàn tay run lẩy bẩy trong khi tự rót cho mình một tách trà khác. Bà thấy thật khó tin nổi tất cả những gì mình vừa nghe. Nữ hoàng chết. Cả ngài Alther cũng chết. Jenna là người thừa kế Lâu đài. Công chúa. Chuyện gì đang xảy ra vậy?

Suốt buổi chiều hôm ấy Sarah cứ hết nhìn trân trối vào Jenna, Công chúa Jenna, lại hoảng hốt lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu người ta biết con bé là ai. Silas đâu rồi, trong lúc bà vô cùng cần ông như thế này?

Silas đang thong dong thưởng thức một ngày câu cá với các con trai của mình.

Tại đoạn sông ngoặt ra từ khu Mở Rộng, có một bãi cát nhỏ. Silas đang bày cho Nicko và Jo-Jo, hai thằng bé nhất, cách cột những hũ mứt vào đầu một cây sào rồi dìm chúng xuống nước. Jo-Jo đã bắt được ba con cá lòng tong, nhưng Nicko đang nổi quạu vì cứ làm rớt cá của nó hoài.

Silas bế Nicko lên và đưa nó tới chỗ Erik và Edd, hai đứa sinh đôi năm tuổi. Erik đang sung sướng mơ màng, đong đưa một bàn chân xuống dòng nước ấm, trong vắt. Edd thì đang dùng gậy chọc chọc cái gì đó dưới một phiến đá. Thì ra là một con bọ nước khổng lồ. Nicko kêu thét lên và ôm chặt lấy cổ Silas.

Sam, thằng gần bảy tuổi, là một ngư dân chánh hiệu. Nó đã được tặng một bộ cần câu “đúng chuẩn” vào ngày sinh nhật vừa qua của mình, và đã có hai con cá nhỏ, óng ánh bạc nằm vắt trên một phiến đá bên cạnh. Cu cậu đang chuẩn bị quay lên một con nữa. Nicko phấn khích hét ầm lên.

“Đưa nó đi chỗ khác đi, ba. Nó làm con cá đó sợ,” Sam gắt gỏng.

Silas nhón gót bế Nicko đi và đến ngồi bên thằng anh cả, Simon. Simon đang một tay cầm cần câu, một tay cầm cuốn sách. Hoài bão của Simon là trở thành Pháp sư Tối thượng, và nó đang bận rộn đọc tất cả đống sách pháp thuật cũ của Silas. Cuốn này, Silas để ý, có tựa đề Bùa Câu Cá Tuyệt Chiêu.

Silas kỳ vọng tất cả các con trai mình sau này đều sẽ trở thành những pháp sư có đẳng cấp – theo truyền thống gia đình. Dì của Silas là một Phù thủy Thiện lừng danh, và cả cha lẫn chú của Silas đều từng là những Người Biến hình, một chuyên ngành vô cùng đặc biệt, và là chuyên ngành mà Silas hy vọng các con mình sẽ tránh, bởi vì những Người Biến hình thành công sau này khi về già đều trở nên cực kỳ bất ổn, có những lúc không thể giữ nổi hình hài của chính mình hơn vài phút. Cha của Silas cuối cùng đã biến mất vào cánh rừng thành một cái cây to, nhưng không ai biết là cây nào. Đó chính là một trong những lý do tại sao Silas thích đi bộ băng qua cánh rừng. Ông thường ra dấu với một cái cây trông lùm xùm, hy vọng đó có thể là cha mình.

Sarah Heap xuất thân từ một gia đình thầy pháp và phù thủy. Hồi còn con gái, cô đã học dược thảo và thuật chữa bệnh với bà lang Galen sống trong cánh rừng, nơi mà một ngày nọ cô tình cờ gặp Silas. Lúc ấy anh đi vào rừng tìm cha. Anh bị lạc và đang buồn rầu thì Sarah đưa anh về cùng mình để gặp Galen. Bà lang giúp Silas hiểu rằng cha của anh, vì là Người Biến hình, chắc hẳn từ nhiều năm trước đã chọn cho mình một đích đến cuối cùng là một cái cây, và giờ có lẽ ông ấy đang sung sướng thật sự. Và Silas cũng vậy, lần đầu tiên trong đời, anh bỗng cảm nhận được một niềm hạnh phúc đúng nghĩa khi ngồi kế bên Sarah, bên cạnh đống lửa của bà lang.

Khi Sarah đã thông hiểu tất cả những gì có thể thông hiểu về dược thảo và thuật chữa bệnh, cô vui mừng từ biệt Galen và về sống cùng Silas trong căn phòng của anh ở khu Mở Rộng. Và họ luôn sống bên nhau kể từ đó, mỗi năm mỗi sinh thêm con cái, trong khi Silas hân hoan bỏ vị trí Học trò của mình, làm một chân Pháp sư Thường đẳng chạy việc vặt để trang trải cuộc sống. Sarah bào chế cồn thuốc bên chiếc bàn nhà bếp mỗi khi có thời gian rảnh – điều này không thường xảy ra.

Tối hôm đó, khi Silas và các con đang bước lên những bậc thang bãi cát để trở về lại khu Mở Rộng, một tên lính bảo hộ lực lưỡng, trùm đồ đen kín mít từ đầu tới chân, chặn đường họ.

“Đứng lại!” Hắn gầm lên. Thằng Nicko òa khóc.

Silas dừng lại và bảo các con dừng theo.

“Giấy tờ!” Tên lính bảo hộ quát. “Giấy tờ của tụi bay đâu?”

Silas trố mắt dòm hắn.

“Giấy tờ gì?” Ông nhỏ nhẹ, không muốn gây rắc rối cho sáu thằng nhóc mệt mỏi vây quanh mình, đang cần về nhà để dùng bữa tối.

“Giấy tờ của mày, đồ pháp sư cặn bã. Bãi này cấm tất cả bọn không có giấy tờ,” gã lính bảo hộ khinh khỉnh.

Silas ngạc nhiên hết sức. Nếu không đi cùng các con, chắc chắn ông đã tranh cãi rồi, nhưng ông đã để ý thấy khẩu súng tên lính đang cầm.

“Xin lỗi,” ông bảo. “Tôi không biết.”

Tên lính nhìn cả đám khắp lượt như thể quyết định làm gì đó, nhưng may cho Silas là lúc đó hắn còn những người khác đang đi tới để mà dọa nạt.

“Cả lũ tụi bay cút khỏi đây và cấm trở lại,” gã lính nạt nộ. “Ở đâu yên đấy.”

Silas lùa vội bầy con đang sững sờ lên hết những bậc cấp và bước vào vùng an toàn của khu Mở Rộng. Sam đánh rớt hết cá của nó và bật khóc sụt sùi.

“Nào nào,” Silas dỗ dành. “Ổn cả mà.”

Nhưng Silas cảm thấy cái gì đó không hề ổn chút nào. Đang có chuyện gì vậy nhỉ?

“Tại sao ông ấy lại gọi chúng ta là pháp sư cặn bã, hả ba?” Simon hỏi. “Pháp sư là tốt nhất cơ mà, phải không ba?”

“Phải,” Silas lơ đãng nói. “Tốt nhất.”

Nhưng vấn đề là, Silas nghĩ, không thể che giấu được nếu anh là pháp sư. Tất cả mọi pháp sư, và chỉ pháp sư mà thôi, đều có dấu hiệu này. Silas có, Sarah có, và tất cả đám con trai, trừ Nicko và Jo-Jo, cũng đều có. Chừng nào Nicko và Jo-Jo đi học Pháp thuật ở trường, chừng đó chắc chắn chúng cũng sẽ có dấu hiệu ấy. Chậm nhưng chắc, cho đến khi không nghi ngờ gì nữa, đôi mắt của đứa trẻ pháp sư sẽ chuyển thành màu xanh lá cây khi nó tiếp nhận bài học Pháp thuật. Đó luôn là niềm tự hào. Vậy mà, cho đến bây giờ, đột nhiên điều đó lại có thể trở thành nguy hiểm.

Tối hôm đó, khi mãi cuối cùng tất cả bọn trẻ rồi cũng đi ngủ, Silas và Sarah nói chuyện với nhau đến tận đêm khuya. Họ nói về Công chúa và đám con pháp sư của mình, và về những thay đổi đã xảy ra với Lâu đài. Họ bàn chuyện đào thoát tới Đầm Cỏ Thô, hoặc đi sâu vào cánh rừng và sống với Galen. Mãi đến khi bình minh hé dạng, họ mới ngủ thiếp đi, Silas và Sarah đã quyết định làm cái điều mà gia đình Heap thường hay làm: tính toán mọi phương kế và hy vọng điều tốt nhất sẽ xảy ra.

Và như thế, suốt chín năm rưỡi sau, Silas và Sarah vẫn giữ im lặng. Họ khóa kín và che chắn cửa nhà, chỉ nói chuyện với những láng giềng và những người mà họ tin cậy, và khi lớp học Pháp thuật ở trường bị cấm, họ dạy Pháp thuật cho các con tại nhà vào những buổi tối.

Chính vì lý do đó mà chín năm rưỡi sau, tất cả mọi người trong gia đình Heap, ngoại trừ một người, đều có mắt màu xanh lá cây đậm.

Other News