NXBT: Người con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy, có tên là Septimus Heap, ngay khi sinh ra đã bị bà đỡ ăn cắp mất và báo là đã chết. Vào cùng đêm đó, cha của cậu là Silas Heap đi ngang qua rừng cây và thấy trong tuyết có một bọc đựng một bé gái mới sinh mang cặp mắt vào tím. Ông Heap mang bé gái đó về nhà, đặt tên là Jenna, nuôi nấng và yêu thương như con gái mình.
Bé gái bí mật đó là ai? Và chuyện gì xảy ra với cậu bé sơ sinh bị đánh cắp? Tập đầu tiên của bộ sách hấp dẫn này được Angie Sage dẫn dắt một cách kỳ ảo và hài hước, với đầy những nhân vật thần bí lạ lùng và hấp dẫn, những độc dược, những câu thần chú chưa từng thấy, những thân phận bí ẩn, những câu chuyện bất ngờ vào phút chót. Mời bạn đọc trích đoạn sách với kỳ 1:
Có cái gì đó trong tuyết. |
Silas Heap kéo áo chùng sát vào người để chống chỏi với tuyết. Cả một quãng đường dài đi bộ xuyên qua cánh rừng, và ông buốt thấu tới tận xương. Nhưng trong mấy túi áo, ông đã có được thảo dược mà bà lang Galen bốc để ông mang về cho Septimus, đứa bé vừa mới sinh được vài ngày của ông.
Silas về gần tới Lâu đài, và ông đã có thể trông thấy ánh sáng thấp thoáng qua những tàn cây do nến hắt ra từ cửa sổ của những tòa nhà cao, hẹp, co cụm dọc theo các bức tường thành bao bên ngoài. Đó là một đêm dài nhất trong năm, và nến được thắp cho tới tận bình minh, để xua không cho bóng tối lại gần. Silas vẫn luôn yêu thích được đi bộ như thế này về Lâu đài. Vào ban ngày thì cánh rừng chẳng hề đáng sợ, và ông thích cuộc đi bộ yên bình, xuyên qua con đường mòn hẹp tí, dặm nối dặm len lỏi qua rừng cây rậm rạp. Giờ ông đã gần ra tới bìa cánh rừng, những cây cao bắt đầu thưa dần, và khi con đường bắt đầu đổ dốc xuống thềm thung lũng, Silas đã có thể trông thấy toàn cảnh Lâu đài dàn trải ra trước mắt mình. Những bức tường cổ kính ôm chặt lấy con sông rộng, khúc khuỷu, ngoằn ngoèo uốn quanh những cụm nhà lộn xộn. Mọi ngôi nhà đều sơn màu rực rỡ, và những căn nhà đâu mặt về hướng Tây trông như thể đang bốc cháy khi cửa sổ của chúng đón những tia nắng mặt trời cuối cùng của mùa đông.
Lâu đài thoạt tiên vốn là một ngôi làng nhỏ. Do ở kề bên cánh rừng, nên dân làng phải xây dựng lên những bức tường đá cao để phòng chống bọn chồn gu-lô và bọn pháp sư, phù thủy – cái bọn chẳng nghĩ đến gì ngoài chuyện bắt trộm cừu, gà và đôi khi cả con cái của dân làng. Càng thêm nhiều nhà mới mọc lên, thì những bức tường càng được mở rộng ra, đồng thời một hào nước sâu được đào quanh tường để cho tất cả mọi người đều cảm thấy an toàn.
Chẳng bao lâu sau Lâu đài đã thu hút những nghệ nhân tài hoa từ các làng khác về. Nó phát triển và trù phú, đến nỗi cư dân bắt đầu không còn đủ chỗ để ở, và một người nào đó quyết định phải cho xây khu Mở Rộng. Khu Mở Rộng, nơi Silas, Sarah và các con trai của họ sống, là một tòa nhà bằng đá khổng lồ, vươn thẳng lên dọc theo bờ sông. Nó trườn suốt ba dặm dọc theo bờ sông rồi quành trở vào Lâu đài, và là một nơi nhộn nhịp, ồn ào, chi chít những đường ngang ngõ tắt, những hành lang, những xưởng máy nhỏ, trường học, và cửa tiệm xen lẫn với những phòng ở của các hộ gia đình, những khu vườn bé tí xíu có mái che, và thậm chí cả một nhà hát. Không có nhiều không gian trong khu Mở Rộng, nhưng người ta không lấy thế làm phiền. Luôn có tình thân ái và luôn có người cho bọn trẻ chơi với.
Khi mặt trời mùa đông đã chìm khuất xuống dưới những bức tường của Lâu đài, Silas dấn bước nhanh hơn. Ông cần phải về tới cổng Bắc trước khi họ khóa cổng và rút chiếc cầu bắc qua hào nước lúc trời xẩm tối.
Đúng lúc đó thì Silas chợt cảm thấy có một cái gì đó ở gần bên mình. Và vật này là vật sống, thế thôi. Ông cảm nhận được một nhịp tim người, một sinh linh nhỏ bé, đập yếu ớt ở đâu đó gần mình. Silas dừng lại. Vì là một Pháp sư Thường đẳng nên ông có khả năng cảm nhận sự vật, nhưng cũng vì không phải là một Pháp sư Thường đẳng tài giỏi đặc biệt, nên ông cần phải tập trung cao độ. Ông đứng im lìm, mặc cho tuyết rơi dày đặc xung quanh đã phủ kín những dấu chân. Và rồi, ông nghe thấy một tiếng gì đó – một tiếng khịt mũi, một tiếng thút thít, hay một hơi thở nhẹ? Ông không chắc, nhưng như thế là đủ.
Dưới một bụi cây ven đường là một cái bọc. Silas nhặt cái bọc lên, và thật sửng sốt, ông thấy mình đang nhìn trân trân vào đôi mắt nghiêm nghị của một đứa trẻ sơ sinh. Silas ẵm nó trên tay và tự hỏi làm thế nào mà con bé nằm được dưới tuyết trong cái ngày lạnh nhất trong năm này. Ai đó đã quấn chặt nó vào một cái chăn len dày, nhưng nó đã nhiễm lạnh rồi: làn môi tím mét, và tuyết phủ trắng lông mi. Khi đôi mắt màu tím đậm của đứa bé chăm chú nhìn ông, Silas có cảm giác bất an là hình như nó đã nhìn thấy điều gì đó trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, một việc mà không một đứa trẻ nào nên nhìn thấy.
Chợt nghĩ đến Sarah ở nhà, ấm áp và an toàn với Septimus và các con trai, Silas quyết định là chắc chắn họ sẽ nhín chỗ cho một sinh linh bé nhỏ nữa cùng sống. Ông cẩn thận nhét đứa bé vào trong tấm áo chùng pháp sư màu xanh da trời của mình, và ôm sát nó vào người trong lúc chạy về hướng cổng Lâu đài. Ông tới được cây cầu vừa lúc Gringe, người gác cổng, chạy ra và đang la hét cho cậu trực cầu quay tời rút cầu lên.
“Còn xíu thời gian thôi đó,” Gringe gầm gừ. “Pháp sư mấy người đúng là quái. Muốn gì mà lại ra ngoài vào một ngày như thế này không biết nữa!”
“Hả?” Silas muốn đi qua mặt Gringe càng nhanh càng tốt, nhưng trước tiên ông cần phải đặt đồng bạc vào lòng bàn tay lão. Silas vội lục tìm ra được một đồng xu bạc từ một túi áo của mình và đưa cho lão già.
“Cảm ơn, Gringe. Chúc ông ngủ ngon.”
Gringe dòm đồng xu như thể đó là một con bọ gớm ghiếc.
“Mụ Marcia Overstrand vừa cho ta hẳn một nửa đồng crao( *) kìa. Nhưng mụ vừa mới lên bậc, chẳng hiểu sao mà giờ mụ đã lên tới Pháp sư Tối thượng rồi.”
“Hả?” Silas suýt nghẹt thở.
“Ừm. Lên bậc, thì mụ ấy lên bậc chứ sao.”
Lão Gringe lùi lại cho Silas đi ngang qua, và Silas vọt lẹ. Silas đang nôn nóng muốn tìm hiểu tại sao mà Marcia Overstrand lại bỗng dưng trở thành Pháp sư Tối thượng, thì bỗng cảm thấy cái bọc cũng bắt đầu ngọ nguậy nôn nóng y như thế trong tấm áo chùng ấm áp của mình. Và có cái gì đó mách bảo ông rằng tốt hơn đừng để cho lão Gringe biết gì về đứa bé.
Khi Silas vừa biến vào bóng tối của đường hầm dẫn tới khu Mở Rộng, thì một dáng người cao lớn trong bộ đồ đỏ tía bước ào ra và ngáng đường ông.
“Marcia!” Silas há hốc miệng. “Cái quái gì...”
“Cấm được nói cho ai biết về con bé. Nó sinh là để dành cho anh. Hiểu chứ?”
Chết sững người, Silas gật đầu. Ông chưa kịp nói thêm điều gì, Marcia đã biến mất vào màn sương mờ màu đỏ tía. Silas đi nốt quãng đường dài quanh co còn lại qua khu Mở Rộng với đầu óc quay cuồng đủ mọi ý nghĩ. Đứa trẻ này là ai? Marcia có liên can gì tới nó? Và tại sao bây giờ Marcia Overstrand lại là Pháp sư Tối thượng? Và khi Silas về gần tới cánh cửa lớn màu đỏ dẫn vô căn phòng vốn đã chật chội rồi của gia đình Heap, bỗng một câu hỏi nữa, cấp bách hơn, bật ra trong đầu ông: liệu Sarah sẽ nói gì về việc phải chăm sóc thêm một đứa bé đây?
Silas không có thời gian để nghĩ lâu về câu hỏi cuối cùng này. Ông vừa bước tới cánh cửa thì cánh cửa bật mở tung ra, và một phụ nữ xồ xề, mặt đỏ gay, mặc cái váy màu xanh đậm của bà mụ chạy vụt ra, suýt nữa thì đâm phải Silas. Bà ta cũng ôm một cái bọc, nhưng cái bọc đó bị quấn băng kín từ đầu tới chân, và bà cắp nó dưới nách tựa như xốc một cái bao hàng và đang vội vã đi giao.
“Chết rồi!” Bà mụ thét lớn.
Bà đẩy Silas qua một bên bằng một cú thật mạnh, và chạy xuống hành lang. Bên trong phòng, Sarah Heap đang kêu khóc vật vã.
Silas bước vào, tim đập thình thịch. Ông thấy Sarah được bao quanh bởi sáu thằng bé mặt trắng bệch, chúng quá sợ đến nỗi không khóc được.
“Bà ấy mang nó đi rồi,” Sarah tuyệt vọng gào lên. “Septimus chết rồi. Bà ấy mang nó đi mất rồi.”
Đúng lúc đó một làn hơi ấm, ươn ướt lan ra từ cái bọc Silas vẫn giấu trong áo chùng. Silas không tìm ra lời cho điều mình muốn nói, cho nên ông lôi cái bọc ra khỏi áo chùng và đặt nó vào cánh tay Sarah.
Sarah Heap bật khóc nức nở.