Chương 1: Điều tốt nhất của gã đàn ông Làm sếp của chính mình sao mà khổ thế nhỉ! Sếp cứ cho tôi nghỉ làm các buổi chiều. Đôi khi, sếp còn cho tôi nghỉ luôn cả buổi sáng nữa. Có những lúc, sếp bảo: “Này, hôm nay làm việc chăm chỉ quá đấy, cậu xứng đáng được nghỉ cả ngày mai”. Nếu tôi ngủ quá giờ, sếp không bao giờ gọi điện thắc mắc xem tôi đang ở đâu; nếu tôi đến muộn, thật may là sếp cũng luôn bước vào văn phòng cùng một lúc và sếp tuyệt đối tin tưởng vào bất cứ lý do lý trấu nào của tôi. Tự làm sếp của mình thật thoải mái. Tự làm nhân viên của mình có thể là tai họa, nhưng tôi không bao giờ nghĩ nhiều về khía cạnh đó.
Hôm nay, tiếng trẻ con léo nhéo đánh thức tôi dậy. Theo kinh nghiệm thì tôi đoán rằng lúc này có thể là khoảng 9 giờ sáng, khi bọn trẻ ở ngôi trường phía bên kia đường chuẩn bị vào học, hoặc khoảng 11.15, giờ ra chơi giữa trưa. Tôi quay lưng nhìn vào chiếc đồng hồ báo thức kiêm radio để bàn và những con số nhỏ bé nhắc nhở tôi rằng đã 1 giờ 24 phút. Giữa trưa rồi! Tôi đã ngủ một mạch mười bốn tiếng. Quả là kỷ lục!
Tôi gọi đó là chiếc đồng hồ báo thức kiêm radio nhưng thực chất, nó chỉ được dùng như một cái đồng hồ to xác, cồng kềnh. Chức năng báo thức và radio đã bị bỏ xó từ lâu lắm rồi, kể từ khi toàn bị kéo dậy trong lúc đang đê mê sung sướng với những bản tin về nạn đói khát lan rộng ở Sudan hay Công chúa Anne vừa mới nhổ răng khôn. Thật đáng ngạc nhiên sự hưng phấn lại có thể xìu nhanh đến thế! Thực ra thì đồng hồ báo thức chỉ dành cho những người phải tỉnh vì có sự vụ quan trọng hơn ngủ, điều mà tôi thực sự không tài nào hiểu nổi! Có những ngày, tôi mở mắt rồi quyết định rằng, chẳng có gì đáng để thức dậy, thay đồ, và thế là tôi nằm ì trên giường cho đến, hừm, giờ ngủ đêm. Nhưng như thế không phải là tốn thời gian vô ích, nằm kềnh vì chẳng-có-gì-đáng-để-tỉnh-dậy mà là thời gian quý giá nằm-để-hưởng-thụ-cuộc-đời. Tôi cho rằng cách tiêu thời gian đó phải được xếp hạng vào một trong những cách giải trí tích cực. Nếu tôi mà được quyết định thì Trung tâm Giải trí Balham sẽ không có gì ngoài hàng loạt những chiếc giường êm ái cùng các loại báo cuối tuần rải rác trên đống gối chăn.
Phòng ngủ đã được thiết kế sao cho nhu cầu bước chân ra khỏi giường của tôi được giữ ở mức tối thiểu. Thay vì một chiếc bàn nhỏ, tủ lạnh được kê ngay kề bên giường với đầy đủ bơ sữa, bánh mì. Trên nóc tủ lạnh là ấm đun nước, chen chân chật vật giữa đám cốc uống trà, túi trà, các hộp ngũ cốc đủ loại, máy nướng bánh mì và một ổ cắm điện đầy ăm ắp. Tôi bật bình đun nước, cho vài lát bánh mì vào nướng. Với tay lấy tờ báo mới. Giật mình thấy một chùm chìa khóa trượt xuống sàn nhà. Và tôi chợt nhớ ra rằng hóa ra mình đã không ngủ một mạch mười bốn tiếng đồng hồ mà đã tỉnh dậy và láng máng nói chuyện với một ai đó, đại khái thế này:
“Chú ơi, chú ơi?”
“Sao? Ớ ờ”, tôi lèm bèm từ trong chăn.
“Xin lỗi chú. Cháu đây mà. Cháu vẫn đưa báo hàng ngày cho chú,” tiếng một cậu bé khàn khàn.
“Rồi sao?”
“Mẹ cháu bảo cháu không được phép đưa báo đến tận chân giường cho chú nữa.”
“Sao lại không?” Tôi cằn nhằn, chăn vẫn trùm kín mặt.
“Mẹ cháu bảo như thế không bình thường. Cháu phải ngăn mẹ cháu không gọi điện báo cho Tổ chức bảo vệ trẻ em đấy!”
“Mấy giờ rồi?”
“Bảy giờ ạ. Cháu đã bảo với mẹ cháu là chú trả thêm tiền để cháu đưa báo lên tận giường nhưng mẹ cháu vẫn bảo thế cứ kì kì và từ nay cháu chỉ được phép nhét báo qua hộp thư giống như với những người khác thôi. Cháu trả chú chùm chìa khóa nhà này.”
Nếu cuộc đối thoại còn kéo dài hơn nữa thì tôi chẳng còn nhớ thêm được gì. Chắc lúc đó tôi lại tự mình thiếp đi. Tiếng leng keng của chùm chìa khóa nhắc tôi về một giấc mơ đã quên một nửa. Khi giở báo đọc qua những tin về chiến tranh, tội ác, thiên tai, tôi thấy lòng mình buồn rười rượi. Ngày hôm nay sẽ là ngày cuối cùng tôi có báo đưa đến tận chân giường.
Miếng bánh mì nướng vừa tới nhảy tưng khỏi lò cùng lúc với bình nước sôi sùng sục và tự động tắt. Bánh mì và bơ được để ở ngăn trên cùng của tủ lạnh nên tôi có thể với tay lấy mà không cần bước chân ra khỏi giường. Khi mới mua chiếc tủ này và loay hoay đặt nó vào trong phòng, tôi đã ngã ngửa trước một thực tế hãi hùng. Cánh cửa tủ được mở ra từ phía kia khiến tôi không thể với tới tay cầm từ trên giường được. Tôi thử dựng ngược tủ xuống nhưng trông nó rất quái đản. Tôi thử kê tủ lạnh sang bên kia thành giường nhưng thế có nghĩa là tôi sẽ phải di chuyển hết đống keyboard, bàn mix và các nhạc cụ linh tinh khác đã chật cứng trong phòng ngủ kiêm studio của mình. Cuối cùng, sau vài tiếng đồng hồ chật vật di chuyển đồ đạc vào các vị trí khác nhau, tôi cũng tìm được chỗ kê giường hợp lý để có thể lấy đồ ra khỏi tủ lạnh, chuẩn bị đồ ăn sáng, nghe điện thoại và xem tivi mà không cần phải di chuyển một bước. Nếu Boots mà bán bộ đồ làm vệ sinh tại chỗ, chắc chắn tôi sẽ là khách hàng đầu tiên.
Ăn sáng ngay trên giường đã là đỉnh nhưng ăn sáng trên giường vào tầm giữa trưa thì là đỉnh của đỉnh chứ lị. Có một chút tội lỗi gì đó khiến miếng bánh mì vàng ươm phết bơ dường như mang hương vị như thức ăn của vua chúa. Vừa nhấm nháp ngụm trà nóng, tôi vừa khua tay với lấy chiếc điều khiển từ xa, bật tivi lên vừa đúng lúc bộ phim tủ của tôi The Appartment của Billy Wilder bắt đầu. Thôi, chỉ xem đoạn đầu thôi, tôi vừa tự nhủ vừa với tay vỗ vỗ vào chiếc gối tựa lưng. Chỉ xem đến phần anh ta phải ngồi làm việc trong công ty bảo hiểm, nhàm chán như hàng trăm đồng nghiệp khác. Bốn mươi phút sau, tiếng chuông điện thoại i ỉ làm tôi giật mình tỉnh giấc. Tôi tắt ngay tiếng tivi và lôi điện thoại ra khỏi sạc điện.
“Xin chào Michael, Hugo Harrison từ DD&G đây. Tôi gọi điện chỉ để nhắc rằng cậu đã hứa là cuối ngày hôm nay sẽ giao cho chúng tôi bản nhạc đấy!”
“Quên thế nào được? Anh đùa à? Cả tuần này tôi chỉ chúi mũi vào việc đó thôi đấy. Vẫn đang vật vã ở studio đây.”
“Thế cậu có thể hoàn thành đúng hẹn được không?”
“Hugo, thế tôi đã bao giờ lỡ một cái hẹn nào chưa? Tôi đang chỉnh sửa bản phối khí một chút. Sẽ giao cho anh tầm 4, 5 giờ chiều.”
“Thế à?” giọng Hugo có vẻ hơi thất vọng. “Không thể sớm hơn được nữa à? Bọn tôi bây giờ chỉ đợi mỗi phần nhạc để ghép vào nữa thôi.”
“Thôi được, tôi sẽ cố. Thành thật mà nói, đang định ra ngoài kiếm gì lót dạ đã nhưng tôi sẽ làm thông trưa nếu anh cần gấp.”
“Cảm ơn, Michael. Thế thì ổn quá. Hẹn gặp sớm nhé!”
Và rồi tôi tắt điện thoại, nằm lại ngay ngắn và xem The Apartment cho đến hết.
Cái mà tôi không nói cho Hugo từ DD&G biết là thực tế tôi đã hoàn thành bản nhạc ấy từ cách đây bốn ngày rồi. Nhưng khi có người thuê anh làm một công việc gì đó với giá một ngàn bảng, anh không thể bàn giao ngay sau hai ngày được. Người mua cần phải cảm thấy họ đã trả đáng đồng tiền bát gạo chứ! Khách hàng có thể nói sa sả rằng họ muốn nhận được kết quả càng sớm càng tốt nhưng tôi thừa hiểu rằng tác phẩm sẽ được đánh giá và cảm nhận đúng mực hơn nếu khách hàng nghĩ rằng tôi đã mất cả tuần đánh vật với nó.
Câu khẩu hiệu mà hãng quảng cáo định đặt trong đoạn nhạc của tôi là: “Động cơ thể thao mạnh mẽ ẩn sau vẻ duyên dáng và sang trọng của một chiếc xe gia đình”. Vì vậy, tôi viết phần mở đầu với âm điệu dịu dàng, êm ái rồi đột ngột chuyển sang tiếng ghita điện gấp gáp, riết róng. Xe gia đình, xe thể thao. Đoạn nhạc đầu buồn tẻ cũng như cuộc đời của những kẻ ba chục tuổi đầu lái những chiếc xe tàng tàng, còn tiếng ghita rạo rực tượng trưng cho một cuộc sống sôi động, náo nhiệt mà tiếc thay họ đã đánh mất mãi mãi. Hugo đồng ý với tôi rằng đó là một ý tưởng tuyệt vời. Đến mức mà chẳng bao lâu sau đó, anh ra đã nói như thể đó chính là ý tưởng của anh ta vậy.
Nói chung thì tôi thường thực hiện hợp đồng ngay sau khi ký kết và rồi thỉnh thoảng lại gọi điện cho khách hàng để thông báo những tin kiểu như: “Này, tôi đã soạn được một đoạn cực kỳ ưng ý nhưng lại chỉ dài có 13 giây thôi. Liệu nó cứ nhất thiết phải là 15 giây không?” Và họ sẽ trả lời tương tự thế này: “Ừ, nếu cậu thực sự hài lòng thì cứ chuyển cho chúng tôi nghe thử xem sao. Nhưng liệu cậu có thể kéo dài ra đúng 15 giây được không? Như giảm tiết tấu xuống một chút cũng được?”
“Chậm đi một chút? Anh không đùa đấy chứ?”
“Tôi không biết, tôi có phải là nhà soạn nhạc đâu cơ chứ!”
Và rồi tôi sẽ giả vờ như đang đau đầu cố tìm một giải pháp trong khi khách hàng gác máy, yên tâm tin tưởng rằng tôi vẫn vùi đầu vào làm việc và tự hài lòng vì họ đã giúp tôi đi đúng hướng. Thực ra thì đoạn nhạc 15 giây ấy đã được đóng gói sẵn sàng trong đĩa ở studio của tôi rồi. Bất cứ lúc nào tôi cũng có thể gửi tác phẩm của mình đi. Nhưng nếu gửi sớm, khách hàng có thể phấn khích lúc ban đầu nhưng sau vài ngày thế nào cũng đòi thay đổi cái này cái kia. Tôi nghiệm ra rằng nên bàn giao vào những phút cuối, khi ấy họ không còn cơ hội nào khác là thừa nhận đoạn nhạc là một tuyệt tác.
Tôi dần dần tự thuyết phục mình rằng mỗi ngày mình cũng làm đủ hai, ba tiếng như bọn đàn ông tầm tuổi tôi thực sự làm việc. Ít ra là tôi không tốn thời gian vờ vịt chuyển nhoay nhoáy màn hình từ Solitaire sang Excel hay bỗng dưng đổi giọng nói điện thoại nghiêm túc khi sếp bước vào phòng. Từ những gì tôi học được ở thế giới bên ngoài, có hàng trăm công việc bắt đầu bằng một, hai giờ tán gẫu rồi anh có thể làm việc nghiêm chỉnh từ 11 giờ đến tầm nghỉ trưa, sau đó quay lại văn phòng, gửi một cái email ngớ ngẩn cho Gary ở phòng kế toán rồi dành thời gian còn lại, cần mẫn, lọ mọ download mấy bức ảnh mát mẻ từ trên mạng.
Bộ phim tôi đang xem dừng lại cho phần quảng cáo và tôi không thể bỏ thói quen nghề nghiệp, dỏng tai nghe xem phần nhạc được dùng. Đó là đoạn quảng cáo cho dao cạo râu một lần của Gillette với câu slogo rất thuận tai: “Thứ tốt nhất dành cho đàn ông”. Thầm nghĩ, họ quả là quá lời cho cái lưỡi cạo bằng nhựa dùng có một lần ấy. Một chiếc Ferrari đập hộp hay một đêm với Pamela Anderson có thể tạm coi được là “tốt nhất” với đa số cánh đàn ông, nhưng theo lời ca sĩ hát đoạn quảng cáo này thì đối với anh ta, đỉnh cao của cuộc đời là ngày nào cũng được cạo râu sạch sẽ. Sau đó, bộ phim lại được chiếu tiếp, nhưng tôi vẫn mải mê suy nghĩ. Không! “Thứ tốt nhất dành cho đàn ông” là được nằm ườn trong chăm ấm đệm êm, thưởng thức một bộ phim hay, nhấp nháp một ly trà nóng, tọp tẹp miếng bánh mì giòn tan và không phải lo nghĩ về bất cứ chuyện gì trên trái đất.
Mỗi khi có ai hỏi về nghề nghiệp, tôi thường lí nhí trả lời rằng mình làm trong lĩnh vực quảng cáo. Hồi xưa tôi hay thực thà bảo mình soạn nhạc hoặc là nhạc sĩ nhưng người nghe thường quá phấn khích và tưởng tượng cao xa nên khi hiểu thực ra tôi chỉ là kẻ viết nhạc đệm cho đoạn quảng cáo hộp số ô tô trên Capital Radio, họ tỏ vẻ thất vọng lắm. Tôi là một nghệ sĩ tự do chuyên viết nhạc quảng cáo, cho dù những người trong nghề thường tránh dùng từ này, nhưng thực chất thì đúng là tôi chỉ là kẻ viết nhạc ở mức rẻ mạt nhất. Nếu như người sáng tác đoạn: “Gillette, thứ tốt nhất dành cho đàn ông” ngang ngửa với Paul McCartney của Beatles trong làng quảng cáo thì tôi chỉ là một tay trống quèn trong ban nhạc xếp hạng năm ở cuộc thi âm nhạc châu Âu năm ngoái.
Ai ai cũng tưởng làm quảng cáo là kiếm bộn tiền, nhưng tôi bắt đầu vỡ ra rằng mình sẽ không bao giờ giàu được nhờ viết những đoạn nhạc hai mươi giây, cho dù mỗi ngày tôi có cày cật lực đủ tám tiếng đi chăng nữa.
Đã có thời tôi thực sự tin rằng mình sẽ trở thành một ngôi sao nhạc rock đáng giá triệu bảng. Khi tốt nghiệp trường nhạc, tôi về quê và thành lập một nhóm nhạc, cũng đi biểu diễn ở các quán rượu và đêm nhạc ở các trường đại học như ai. Cứ cho là tôi có hơi phóng đại đi nhưng thực tế mà nói thì đã có thời vào cuối những năm 80, chúng tôi là ban nhạc nổi nhất vùng Godalming đấy. Nhưng rồi ban nhạc tan vỡ chỉ vì tay trống ra đi do “sự khác biệt về âm nhạc”. Chúng tôi là những nghệ sĩ thực thụ còn hắn ta thì không! Mặc dù hắn là tay trống dở nhất thời đại mà tôi từng biết nhưng hắn lại là thành viên quan trọng nhất trong ban chỉ vì hắn sở hữu một chiếc xe tải. Tôi đã nghiệm ra rồi, không ai có thể chở được nhiều loa kèn, âm li trên một chiếc xe máy còm cả. Sau đỉnh cao ấy, tôi vẫn tiếp tục thu âm và cố gắng dựng lại nhóm nhạc nhưng sản phẩm cuối cùng chỉ còn lại mỗi một hộp đầy đĩa demo và một CD quý giá ghi lại những tác phẩm bất hủ của mình.
Tôi trèo ra khỏi giường, vừa thay quần áo vừa nghe lại đĩa nhạc của mình. Vẫn thấy tự hào hơn bao giờ hết và không thể tha thứ được cho bọn sản xuất của John Peel đã dám từ chối dùng nhạc của tôi.
Quãng đường từ nhà tới công sở của tôi chỉ là đi vài bước từ phía này sang phía kia của phòng ngủ. Trước khi bắt tay vào làm việc, tôi thường cố biến phòng ngủ cho giống phòng làm việc một chút. Như thế có nghĩa là gập đôi cái giường ngủ lại cho thành sofa và nhặt nhạnh vài cái tất bẩn hay quần áo lót còn vương bừa bãi trên keyboard. Ngoài chiếc Roland XP-60, phòng thu âm của tôi còn được trang bị một máy tính, một bàn mix 18 kênh, một đầu đĩa, một máy reverb, một mini-box, vài bộ tạo thanh, vài bộ loa và một tape desk. Đằng sau đống máy móc bừa bộn ấy là hơn mười ki-lô-mét các loại giây rợ lùng nhùng. Với những kẻ ngoại đạo thì dàn nhạc cụ của tôi có vẻ khủng lắm nhưng thực chất chúng chỉ là một đống tạp nham. Càng lôi về nhiều thiết bị, tôi càng mất thời gian tìm kiếm những vật dụng cần thiết khiến cho nhiều khi muốn tập trung làm việc cũng không được. Tôi chủ yếu chỉ dùng đến keyboard, bộ âm thanh cài sẵn và bộ hợp âm mẫu đa năng. Chúng có thể tạo ra hầu hết thanh âm của bất cứ một loại nhạc cụ nào. Cho dù tôi có vài thiết bị trông rất tối tân nhưng thực tình chúng đã lạc hậu ít nhất là vài năm hoặc sẽ thành lạc hậu khi tôi vỡ ra cách sử dụng. Tôi chẳng bao giờ có thời gian để đọc hướng dẫn sử dụng, chẳng khác gì làm chủ con Ferrari mà chỉ biết đi số một.
Bước loạng quạng vào nhà tắm, tôi chằm chằm nhìn vào gương. Mới qua một đêm mà đống tóc bạc đã loi nhoi lên cả phía trán. Tóc muối tiêu ở đâu ra mà nhiều thế này? Mặc dù chúng vẫn là thiểu số nhưng tôi hiểu rằng, chúng cũng như bọn sóc lông bạc, một khi vài con đã tìm được nơi trú ngụ thì cả bầy cả đoàn sẽ kéo đến, khiến cho toàn bộ đám tóc đen nhánh ngày xưa trở thành tuyệt chủng, may ra chỉ còn vài cái lơ thơ ở lông mày hay trong lỗ mũi mà thôi. Ngự ngay trên mũi của tôi là cái cái nhọt đầu vàng ủng mà dưới con mắt chuyên gia hai chục năm ròng của tôi thì sắp đến hồi bục mủ. Khi còn là gã trai đang lớn, tôi cứ mơ tưởng tới một thời kỳ vàng son khi tuổi mụn nhọt qua đi và giai đoạn bạc đầu còn lâu mới tới. Giờ đây mới thấy sao mà mình ngây ngô đến thế. Mới ba chục tuổi đầu mà sức lực của tôi đã khá tiều tụy. Tôi cũng như bình minh ngày hè chưa kịp chớm đã thấy bóng tối mùa đông sầm sập kéo về.
Cuối cùng thì khoảng bốn giờ chiều tôi cũng mò vào được phòng khách, nơi Jim miệt mài đèn sách mấy năm giời cho cái luận án tiến sĩ. Hôm nay là chuyên đề luyện Tom Raider cùng với Simon. Cả hai lầm bầm chào tôi, mặc dù không thằng nào ngước mắt khỏi màn hình. Có khi tôi hay là quái vật từ Biển Đen đột nhập vào nhà để bật bình đun nước lên thì đối với chúng nó cũng thế. Jim và Simon trông giống hệt những hình ảnh “trước đó” và “sau này” trong quảng cáo về rèn luyện thể lực của Charles Atlas. Jim có dáng cao lớn và cơ bắp của một thanh niên cường tráng, năm nào cũng đi trượt tuyết kể từ khi tròn năm tuổi. Ngược lại, Simon thì gày gò, ốm yếu và vụng về. Nếu nhà sản xuất có thể làm cho game sống động hơn nữa thì Lara Croft hẳn sẽ phải quay lưng lại và quát sa sả từ màn hình: “Bỏ cái kiểu nhìn chằm chằm vào ngực phụ nữ như thế đi nhé, mấy thằng khốn nạn!” và tạt Simon bay khỏi sofa từ lâu rồi. Simon có một công việc đầy tiềm năng là rót bia vào cốc nhựa cho sinh viên ở cái trường mà hắn đã tốt nghiệp cách đây vài năm. Hắn kiếm được công việc ấy vào đúng hôm ra trường với hy vọng một ngày nào đó sẽ kiếm đủ tiền để trả hết những khoản nợ chồng chất từ mấy năm vui thú phía bên kia quầy.
Vừa lúc đó có tiếng sập cửa và Paul bước vào, quẳng phịch một đống sách giáo khoa lên mặt bàn ăn với một tiếng thở dài thê thảm, nhằm câu kéo sự chú ý của mọi người nhưng hiển nhiên là chẳng ai thèm bận tâm cả.
“Giời ạ!” Paul than, nhưng cả bọn vẫn chẳng buồn hỏi chuyện. Paul đành tự cất bình sữa tươi vào tủ lạnh, vớt mấy túi bã trà ra khỏi chậu rửa bát và tặc lưỡi một mình. Hắn tỏ rõ thái độ không hài lòng vì mọi người trong nhà sống quá bừa bộn và mọi việc cuối cùng cũng về tay hắn trong khi hắn đã mệt dừ người với một ngày dạy ở trường. Điều đó cũng như để ám chỉ công việc buổi tối của Simon hay cái bằng tiến sĩ của Jim và cả công việc soạn nhạc của tôi thực sự toàn là những công việc vớ vẩn, nhàn hạ. Thực chất là Paul cực kỳ có lý nhưng dẫu sao thì lũ chúng tôi cũng chẳng bận tâm gì.
Bốn đứa chúng tôi thuê chung căn hộ này đã được hai năm rồi. Không một ai trong số còn lại biết tôi khi tôi mới chuyển đến và tôi cũng là người thích giữ kín chuyện đời tư của mình. Căn hộ này có vị trí đẹp, nhìn xuống ngay con đường Balham nhộn nhịp và nằm ngay phía trên một cửa hàng nơi chúng tôi có thể chạy xuống và mua thực phẩm của người Hồi giáo bất cứ ngày hay đêm. Đây không phải là một căn hộ xập xệ xuống cấp mà người ta thường nghĩ khi có bốn thằng đực rựa ở chung. Chúng tôi có lịch dọn dẹp rất rõ ràng mà ba đứa thường xuyên nhường phần cho Paul.
Paul nhặt miếng bơ còn sót lại bỏ vào đĩa đựng bơ rồi cẩn thận gấp nhỏ miếng giấy bọc lại trước khi vứt vào thùng rác. Sau mọi nỗ lực để thu hút sự chú ý của chúng tôi đều thất bại thảm hại, Paul chủ ý gợi chuyện:
“Michael, tình hình thế nào?”
“Quả là một ngày chó chết,” tôi trả lời.
“Ồ không, có chuyện gì thế?” Giọng cậu ta rất sốt sắng quan tâm.
“Thằng nhóc đưa báo khốn khiếp đánh thức tôi dậy vào lúc 7 giờ sáng để thông báo rằng từ nay nó sẽ không đưa báo đến tận giường tôi nữa, viện lý do là mẹ nó bảo như thế là không bình thường. Tôi nhớ đinh ninh là hai bên đã cam kết là không nói cho bố mẹ biết về chi tiết này cơ mà.”
Thời gian như dừng lại.
“Không, chính tôi nói với mẹ nó đấy.” Paul thú nhận với vẻ mặt căng thẳng của một kẻ đã chuẩn bị tinh thần lâm trận.
“Cậu ấy hả? Cậu làm trò gì thế?”
“Hừm, thứ nhất là tôi chẳng hài lòng gì với việc ông giao chìa khóa nhà cho một thằng mười ba tuổi đầu đường xó chợ.”
“Nó không phải là một thằng đầu đường xó chợ!”
“Đúng đấy. Mà ông có biết vì sao tôi dám khẳng định thế không? Bởi vì tôi là giáo viên của nó. Troy là học sinh của tôi. Và hôm kia, vào lúc 7 giờ sáng, khi tôi bước ra khỏi nhà tắm, trần như nhộng, thì thấy Troy đứng trên bậc cầu thang nhìn tôi trân trối.”
Lúc đó thì Jim phá lên cười ngặt nghẽo nên phải nhổ cả ngụm trà đang uống dở vào cốc. “Thế ông có nói gì không?”
“Hả, tôi nói: ‘Hello Troy’.”
“Thế nó bảo gì?”
“Nó bảo, ‘Hello, Mr. Hitchcock.’ Thực tình mà nói, nó trông có vẻ hơi rối trí. Quả tình là nó cũng đen đi. Đã mấy ngày nay nó cố tình lẩn tránh tôi vì còn nợ một bài luận về nhân vật Piggy trong tác phẩm Chúa tể của loài ruồi. Trong tích tắc, tôi nghĩ nó đang tưởng tôi lẻn vào căn hộ này lúc 7 giờ sáng, không quần không áo chỉ để tra khảo nó về bài luận.”
Tôi vẫn không khỏi bực mình. “Ừ, thì cứ cho là cậu chạm mặt Troy ở cầu thang đi. Thì sao nào? Thì có nghĩa là cậu phải ton hót với mẹ nó về việc của tôi à?”
“Tôi là giáo viên của Troy. Chẳng hay ho gì khi thấy tin giật gân trên báo: ‘Học sinh thăm thầy giáo khỏa thân trước giờ vào lớp.’ Hơn nữa, tôi không muốn một lúc nào đó phải hiệu chính với học sinh của tôi là tên tôi đọc đúng là Mr. Hitchcock chứ không phải Mr. Titchy-cock1.”
Cốc trà của Jim đã bị nhổ đi nhổ lại quá nhiều lần đến mức không thể uống được nữa.
“Vì thế, tối qua khi họp phụ huynh,” Paul tiếp lời, “Tôi đã nói cho mẹ Troy biết rằng cậu ta có chìa khóa vào căn hộ và sáng hôm trước cậu ta đã nhìn tôi trần truồng bước ra từ nhà tắm.”
“Có lẽ đó không phải là cách tốt nhất để thông báo tình hình nhỉ?”
“Hừm, mặc dù tôi đã lường trước hậu quả và đã nói tránh đi một chút rồi đấy. Bà ta lên cơn điên và dùng giầy đánh tôi tới tấp. Phải nhờ sự can thiệp của ông hiệu phó mà tôi mới thoát đấy.”
Trông Paul có vẻ tổn thương vì bị lôi ra làm đề tài giải trí.
“Đừng giận Paul, bọn tôi không cười ông đâu.”
“Tôi thì có.” Jim nói.
“Ừ, tôi cũng thế!” Simon tiếp lời.
Paul lẳng lặng ngồi xuống một góc chấm bài. Khổ thân bọn học sinh sẽ bị nhận điểm thấp hơn bình thường chỉ vì ông giáo viên đáng kính của chúng bị chúng tôi chọc ngoáy. Paul đúng là loại giáo viên dễ bị bắt nạt. Cậu ta lúc nào trông cũng như con thú bị tổn thương. Tính Paul lại hiền lành và điềm đạm, ngay cả lúc bọn học sinh láo lếu dám mang ô tô của thầy ra bán.
Tôi chẳng hiểu sao mấy thằng bạn cùng nhà lại phải mất công chọc tức Paul đến thế bởi cậu ta có thể tự nhiên bực mình từ những việc nhỏ nhặt nhất. Đã có lần, cậu ta thẳng thừng tuyên bố rằng sẽ chỉ nhặt tóc của mình rơi trong nhà tắm vì lũ bọn tôi chẳng đứa nào buồn dọn dẹp gì cả. Và thế là chúng tôi được chứng kiến Paul chổng mông ngồi phân loại tóc để nhặt ra những sợi tóc đỏ của mình. Cũng chẳng phải Paul ki bo gì nhưng hắn rất bực bội với cách người khác nặn kem đánh răng từ đầu tuýp thay vì từ cuối. Nói chung là tất thảy mọi chuyện chúng tôi làm đều khiến Paul cực kỳ khó chịu.
Cả lũ ngồi khểnh quanh bàn ăn thêm một lúc nữa rồi Jim tuyên bố sẽ đi pha trà. Paul luôn từ chối để Jim pha trà cho mình vì kiểu cách của Jim làm hắn tức lộn ruột. Cách pha trà của Jim là biểu tượng không thể hình dung nổi về cung cách làm việc thiếu hiệu quả. Đầu tiên, hắn sẽ lôi cốc ra khỏi tủ và bày ngay ngắn lên khay. Sau đó, hắn đi về phía chậu rửa bát, ngơ ngẩn vài phút như để trấn tĩnh xem mình đang định làm gì. Khi định thần lại, hắn sẽ lấy sữa ra khỏi tủ lạnh. Sau khi sữa đã được rót đều vào từng cốc, hắn sẽ đi tìm túi trà vào bỏ vào mỗi cốc. Xong rồi thì hắn sẽ chợt nhận ra là mình làm thừa một cốc nên sẽ cất một cái đi và lôi lọ đường ra, đặt lên khay và xoa tay thỏa mãn rồi mới bắt đầu đi đặt nước nóng.
Đối với Paul, những công đoạn đó chứng tỏ Jim là kẻ không thể sống cùng được. Jim không những chỉ đun nước nóng vào phút cuối cùng mà còn lấy ấm nước đầy đến ngọn nên càng phí nhiều thời gian cho ba cốc trà. Và khi đợi ấm nước mất ngàn năm để sôi, Jim sẽ đứng đó, thỉnh thoảng di chuyển vị trí các cốc trên khay. Thực tình Jim không biết là phía sau lưng, Paul đang lồng lộn lên vì cách thức tổ chức công việc thiếu khoa học của hắn. Dù cố nhịn đến đâu, Paul cũng không thể để Jim yên. Tôi biết thừa rằng trong vòng sáu mươi giây, Paul sẽ hỏi Jim tại sao không đặt nước lên ngay từ đầu.
“Jim, sao ông không đun nước trước?” Chỉ sau ba giây, Paul cất tiếng.
“Hả?”
“Ý tôi là, nếu ông đun nước trước có phải là tiết kiệm được khối thời gian không? Trước khi ông lấy cốc ra và làm những thủ tục khác ấy!”
Jim nhún vai bất cần: “Hừm, làm thế thì bình nước cũng chẳng sôi nhanh hơn, đúng không?”
Jim quả là chậm để hiểu cái logic của Paul cũng như chậm để pha một cốc trà.
“Hiển nhiên là không, nhưng ông sẽ có nước sôi trước, bởi vì trong lúc đợi nước sôi, ông có thể lấy túi trà, lấy sữa và làm các việc khác.” Paul phải kiềm chế lắm để không hét toáng vào mặt Jim. Jim có vẻ choáng trước sự bận tâm thái quá của bạn.
“Nhưng bọn nó chẳng vội đi đâu hay làm gì cả, phải không? Simon, mày không phải đi đâu đấy chứ?”
Simon ngước mắt lên khỏi tờ báo đang đọc giở. “Tôi á? Không.”
“Chẳng ai vội, thế thì việc gì phải bận tâm?”
Tôi có thể nhận thấy sự tức giận của Paul dâng trào. Mặt cậu ta đỏ ửng, nhưng ít nhất là cũng làm cho bộ râu đỏ đỡ đơn độc. “Nhưng đó là cách pha trà cực kỳ bất hợp lý.”
“Nhưng ông có uống đâu?”
“Không, tôi không uống bởi vì tôi không thể chịu đựng nổi cách làm ngược đời của ông.” Và thế là Paul đùng đùng bỏ ra khỏi phòng. Jim hoàn toàn sửng sốt.
“Có phải tại tôi cho đường vào cốc của Paul khi nó không uống ngọt hay không?”
Simon lẩm bẩm rằng chắc không phải thế và Jim lại nhún vai và đứng ngẩn tò te bên chậu rửa bát một lúc. Sau năm phút, hắn nhận ra rằng mình chưa bật công tắc của bình đun nước.
Khi trà pha xong, ba đứa chúng tôi nhấp nháp trong im lặng. Simon vẫn chăm chú vào mục “Giải đáp các thắc mắc về tình dục” của tờ The Sun, mà tôi đảm bảo là được bịa ra từ mấy nhà báo đồng nghiệp ngồi ở văn phòng bên cạnh.
“Em chồng tôi trở thành tình nhân.” Hắn đọc to. “Deirdre thân mến, tôi là một cô gái tóc vàng hấp dẫn và theo mọi người nhận xét thì còn có thân hình khá khêu gợi. Một hôm, khi chồng tôi đi vắng, cậu em chồng qua chơi rồi từ chuyện này dẫn đến chuyện kia, chúng tôi đã ngủ với nhau...”
Simon đặt phịch tờ báo xuống, bình luận: “Họ luôn biện bạch rằng ‘từ chuyện này dẫn đến chuyện kia,’ làm sao mà từ một chuyện dẫn đến chuyện khác được, đó là đoạn mà tôi không hiểu. Tôi biết là ông em rể đến chơi rồi cả hai lên giường. Nhưng làm sao có thể đi từ đoạn đầu tiên đến đoạn cuối cùng ấy?”
“Quá đơn giản, Simon,” Jim nói.
“Thế hả, đơn giản thế nào?”
“Mày gặp một nàng.”
“Ừ.”
“Cô ta ở lại uống cà phê.”
“Ừ, sao nữa?”
“Hừm, từ chuyện này dẫn đến chuyện kia.”
Sau hai cốc trà, tôi hoàn toàn không tìm được lý do gì cho việc để cho bọn DD&G đợi thêm nữa nên nhặt lấy đĩa nhạc và đi ra ga tàu điện ngầm Balham. Ba mươi phút sau, tôi dạo bước thong dong trên phố Berwick, chứng kiến một đôi học sinh người Pháp với chiếc máy ảnh dùng một lần trong tay, chăm chăm chú chú tạo dựng lại hình ảnh trong bìa đĩa hát Có chuyện gì trong buổi sáng chói chang mà suýt bị ô tô chẹt phải. Tôi rất thích đến khu Soho, nơi không khí lúc nào cũng nhộn nhịp và hối hả khiến cho một thằng như tôi cũng muốn phải giả vờ trong một thoáng, mình cũng là một phần của nhịp sống ấy. Có những người ở đây kiếm cả ngàn bảng mỗi ngày chỉ nhờ lồng tiếng trong mấy đoạn quảng cáo rồi chính họ lại làm hỏng hình ảnh của mình bằng cách đi mua mấy cái sandwich tôm kẹp quả bơ và cafe trong cốc giấy, vừa đi vừa gặm rất mất tư cách.
Tôi liếc nhìn sang phía bên kia đường và phát hiện ra Hugo từ DD&G đang chăm chú nhìn vào cửa sổ một hàng ven đường. Đáng ngờ thật, tại sao Hugo lại nhìn vào cửa sổ của một cửa hàng bán sỉ đồ trang sức châu Á? Gã liếc trước liếc sau rồi chuồn gọn vào một lối đi trông rất rẻ tiền, trang trí nhằng nhịt những cây đèn trang trí đỏ chóe. Tôi thấy sốc quá nên lén lại gần phía cửa và nhìn vào. Một mẩu giấy với dòng chữ viết nguệch ngoạc được dính lên cửa bằng dải băng dính màu nâu nhạt: “Người mẫu mới. Dịch vụ thân thiện. Tầng 1.” Tôi nhìn xuống những bậc cầu thang trần trụi không trải thảm và tự hỏi không biết dưới đó có gì nhỉ. Có lẽ Hugo đến đây để thuyết phục khách hàng sử dụng cách thức quảng cáo hiện đại hơn, hoặc để gợi ý nên dùng mấy câu slogan nghe bắt tai hơn và ít ra là đánh vần từ “thân thiện” một cách chính xác. Tôi tiếp tục bước trên phố Berwich và cuối cùng cũng đến được quầy tiếp tân sáng sủa của DD&G. Ở ngay đó có treo một tấm bằng chứng nhận, khoe khoang rằng họ đạt giải nhì trong chiến dịch quảng cáo cho các Ngân hàng thương mại trên đài phát thanh năm ngoái. Hóa ra là Hugo tranh thủ chạy ra ngoài để mua thiệp sinh nhật cho vợ. Tôi để lại đĩa nhạc cho cô lễ tân xinh đẹp, duyên dáng ngồi sau khung cửa sổ được trang trí bởi những bông hoa tươi roi rói.
Thế là công việc trong một tuần của tôi đã hoàn thành. Đã đến lúc về nhà ở phía bắc của London. Đúng giờ cao điểm, tôi chen chân vào đống người vừa rời công sở. Hàng trăm nhân viên văn phòng chèn nhau như cá hộp mà vẻ mặt vẫn tỉnh bơ như không hề biết đến ai xung quanh. Những cánh tay uốn éo ở mọi tư thế không thể tưởng tượng nổi để đọc những cuốn sách bị bẻ cong bìa. Những chiếc cổ cố nghển lên để đọc lén báo của người ở phía trước. Những giáo dân ngoan đạo đọc nghiến ngấu Kinh thánh như chưa được đọc bao giờ. Bỗng dưng có một ghế trống và tôi nhón chân nhanh như sóc nhưng vẫn phải giả vờ là mình không vội vã gì. Tôi ngồi xuống, thở dài khoan khoái nhưng chưa ấm mông thì lại giật mình áy náy. Có một phụ nữ đứng ngay trước mặt tôi, bụng lù lù một đống. Không hiểu cô ta đang chửa sáu tháng hay là, hừm... béo quá? Thật phân vân. Tôi liếc nhanh cô ta từ đầu đến chân để đánh giá tình hình. Tại sao cô ấy không cho ta một dấu hiệu nào cả nhỉ? Cái váy có vẻ rộng ở mọi vị trí trừ chỗ cái bụng tròn tròn và căng căng. Tự hỏi chẳng biết thế nào thì tệ hơn, từ chối nhường ghế cho một phụ nữ mang bầu hay là nhường ghế cho một người mà mình tưởng là họ đang mang bầu? Có lẽ vì vậy mà đàn ông ngày trước thường nhường ghế cho bất cứ ai là phụ nữ, để tránh những câu hỏi nan giải và trái khoáy như thế. Mọi người xung quanh chẳng ai thèm bận tâm cả, nhưng sao mà tôi vẫn thấy áy náy quá.
“Xin lỗi, chị có muốn ngồi xuống không?” Tôi hỏi và dạm đứng dậy.
“Tại sao tôi lại muốn ngồi xuống?” Cô ta nói, giọng rất cáu kỉnh.
Chó chết thật, tôi thầm nghĩ. “À, chị trông có vẻ hơi mệt... ừm, mà đằng nào thì tôi cũng xuống ở bến tới,” tôi nói dối.
Tới đây thì hai bên có vẻ tạm hiểu nhau và cô ta ngồi xuống ghế còn tôi thì buộc phải rời toa tàu để minh chứng cho lời nói phét của mình. Chen chúc qua dòng người, tôi vừa kịp nhảy lên một toa khác, cách chỗ cũ vài toa. Người phụ nữ không-biết-có-phải-chửa-hay-không đã nhìn tôi lạ lẫm, nhưng cũng không bằng cái lườm quái gở khi cô ta nhìn thấy tôi cũng ra ở bến Kentish Town mười lăm phút sau đó.
Vừa bước ra hít thở khí trời, điện thoại của tôi ra hiệu có tin nhắn. Tin của Hugo. Gã xin lỗi vì đã nhỡ hẹn với tôi vì gã bận việc phải ra ra vào vào cả buổi chiều, (thế là hơi quá nhiều thông tin đối với tôi). Gã rất hài lòng với đoạn nhạc và khen rằng tôi đã sáng tác ra một tác phẩm “ngon đếch chịu được”. Cho dù bình thường thì tôi đánh giá Hugo là một kẻ dối trá và kém hiểu biết nhưng lần này thì tôi sẵn sàng coi đó là một ngoại lệ. Tôi chưa bao giờ tự tin rằng những mẩu nhạc ngắn tũn mà tôi viết là hay ho cả. Bất cứ lúc nào một tiết tấu hay xuất hiện trong đầu, tôi lại nghi ngờ rằng hẳn mình đã đạo nhạc ở đâu đó. Vì vậy, bất cứ lời khen nào cũng được tôi vồ lấy vồ để. Đáng tiếc là mẩu nhạc tôi viết cho Hugo cũng chỉ được dùng cho đoạn quảng cáo mà công ty của hắn đang cố ký kết. Nếu hãng quảng cáo quyết định không dùng công ty của Hugo thì tác phẩm của tôi cũng thành bỏ xó. Tôi đã biết trước thân phận cho tác phẩm của mình khi bắt tay vào làm, nhưng thôi thì cũng phải phủi tay làm cho nhanh để còn lấy tiền trả các loại hóa đơn và đồng thời cũng cho tôi vài ngày thảnh thơi trong cái ổ ấm áp mà tôi đã tạo dựng cho mình.
Tôi rẽ vào Bartholomew Close. Những thùng rác màu ghi to đùng, chắc chắn xếp dằng dặc trên phố, như những bức tượng ở đảo Phục Sinh đang đợi chờ những người khách lạ. Bước đến số nhà 17, tôi tra chìa vào ổ khóa. Vừa mở cửa, tôi đã bị choáng bởi tiếng ồn ã và sự hỗn loạn.
“Bố về!” đứa con gái hai tuổi Millie của tôi hét toáng lên và chạy ra cửa ôm chầm lấy chân tôi. Có tiếng nhạc trẻ con phát ra từ đài và Alfie, con trai bé của tôi đang lúc lắc chân rất vui sướng trên tay của mẹ.
“Anh về sớm thế,” Catherine cười nói.
Tôi nhón chân tránh mấy cục đồ chơi bằng gỗ rải rác trên thảm, hôn chào vợ rồi đón lấy Alfie.
“Ừ, và em có đoán được không? Anh đã hoàn thành công việc và cuối tuần này không phải làm gì nữa.”
“Tuyệt,” Catherine nói. “Thế thì phải ăn mừng gấp đôi rồi. Bố có biết ai đi tè vào bô hôm nay không?”
“Thật á, Millie?”
Millie gật đầu lia lịa đầy tự hào, nhưng cũng không bằng mẹ nó đang đứng cạnh.
“Và con không són tí nào ra sàn, đúng không Millie? Còn giỏi hơn ông bố ba mươi hai tuổi của con đấy!”
Tôi chọc âu yếm vào bụng vợ. “Này, ghế lót toilet lúc nào cũng đặt xuống là không phải lỗi của anh đâu nhé!”
“Tất nhiên là lỗi của thằng ngốc nào đó đã lắp thế rồi,” nàng trả lời, ám chỉ đến cái buổi chiều mà tôi đã phải đánh vật gần ba tiếng đồng hồ chỉ để lắp cái phần ghế lót bằng gỗ sai chiều.
Millie hiển nhiên là phấn khích trước những lời khen ngợi nên cố tìm cách thu hút thêm sự chú ý. “Con vẽ con mèo này,” rồi xòe ra một đống giấy để tôi được dịp nghiên cứu kỹ lưỡng. Thật tình mà nói Millie vẽ như dở hơi. Để tạo hình con mèo, tiểu thư nhặt lấy bút sáp màu xanh rồi nguệch ngoạc vẽ đường lên đường xuống trên mặt giấy.
“Ôi, Millie, tranh đẹp quá. Con thật là thông minh.” Một ngày nào đó, Millie sẽ quay đầu lại và nói, “Đừng có mà nịnh bợ con nữa bố, cả hai chúng ta đều biết thừa rằng bức tranh đó thật vớ vẩn,” nhưng bây giờ thì nó có vẻ tin tôi. Tôi thích quay về nhà sau vài ngày vắng mặt; mọi người đều hoan hỉ khi gặp lại tôi. Đó là sự trở về của một người hùng.
Catherine tranh thủ dọn dẹp phòng bếp trong khi tôi chơi với lũ trẻ. Tôi chơi trốn tìm với Millie. Trò này dễ ợt vì ba lần liên tục, Millie chỉ trốn ở sau rèm cửa. Sau đó tôi chọc cười Alfie bằng cách tung hứng nó cho đến khi Catherine quay lại để xem vì sao Alfie bỗng dưng lại khóc rống lên.
“Anh không biết,” tôi nói, cố không nhìn lên cái đèn chùm bằng sắt đang rung đi rung lại trên đầu vợ. Nàng đón lấy thằng con lè nhè, và đúng lúc đó, tôi thấy vợ trông có vẻ mệt mỏi nên nhận lấy việc dọn dẹp nốt. Tôi bước lên tầng, vừa đi vừa nhặt nhạnh mấy thứ đồ chơi vương vãi trên sàn. Tôi xả nước vào bồn tắm với xà phòng ngập đầy, tắt điện và thắp vài cây nến. Sau đó, tôi đặt cái đầu đĩa CD vào nhà tắm và bật bản Pastoral Symphony của Beethoven.
“Catherine, lên đây một chút được không,” tôi gọi với. Nàng bước lên và chiêm ngưỡng cái thiên đường mà tôi vừa tạo dựng.
“Để anh trông con, bật máy rửa bát và làm các việc khác cho. Em đi tắm đi. Anh sẽ mang lên cho em một ly rượu và em không được phép đi ra ngoài cho tới khi bản Khúc hát của người chăn cừu: Cảm xúc thảnh thơi sau cơn bão chấm dứt.”
Nàng ngả người vào tôi. “Ôi, Michael. Tại sao em lại may mắn thế này?”
“Ừ, thì em một mình trông con mấy ngày nay, chắc em cũng muốn có một phút thư thả?”
“Vâng, nhưng anh cũng làm việc vất vả rồi. Hẳn anh cũng muốn được nghỉ ngơi tí chút chứ?”
“Anh không làm việc cật lực như em,” tôi nói một cách thành thực. Sau vài cử chỉ từ chối miễn cưỡng, nàng bật lò sưởi rồi vặn tiếng nhạc to hẳn lên để át đi tiếng gọi đầy công phẫn “Mummy!” đã bắt đầu vọng lên từ dưới nhà bếp.
“Michael,” nàng vừa nói vừa hôn tôi lên má, “cám ơn anh, người chồng tốt nhất trên đời.”
Tôi cười nửa miệng. Khi vợ bạn đã nói như vậy, thật không nên nói cho nàng biết hết sự thật.