Phòng ăn rộng mênh mông sáng rực trong ánh mặt trời chiều muộn. Những tia sáng chiếu xiên chạy đường kẻ vàng óng trên những khung cửa gỗ bóng láng và nảy bật ra khỏi sàn nhà được đánh sáp, làm lóa lên những chỗ sáng nhất nơi một bộ áo giáp nguyên người được đặt đứng trong góc nhà và phân biệt rõ những đốm màu sắc phát ra từ nơi trưng bày những hộp tiền xu từng ghi lại vết tích lịch sử loài người hơn hai thiên niên kỷ qua.
Trọn cả một bức tường phủ đầy những chiếc mặt nạ và nón bảo hiểm trải qua mọi thời kỳ đến từ khắp các châu lục, những hốc mắt trống rỗng nhìn xuống căn phòng. Một vài chiếc mặt nạ bao quanh bức tranh sơn dầu của Santi di Tito, đã bị đánh cắp khỏi điện Palazzo Vecchio ở
Tiến sĩ John Dee ngồi bên cạnh bàn.
Niccolò Machiavelli ngồi đối diện với John Dee. Sự khác biệt về vóc dáng thân hình giữa hai người đàn ông này thật đáng chú ý. Trong khi Dee thấp bé và xanh xao, Machiavelli lại cao ráo, nước da rám nắng đậm màu, nhấn mạnh nét tiêu biểu cả hai cùng có chung: đôi mắt màu xám lạnh lùng. Machiavelli giữ cho mái tóc trắng như tuyết của mình luôn ngắn sát và lúc nào cũng cạo râu sạch sẽ, sở thích của y có thiên hướng nghiêng về một phong cách lịch thiệp tao nhã. Bộ vét màu đen cùng với chiếc áo sơ-mi lụa trắng rõ ràng là được cắt may theo đơn đặt hàng riêng, và chiếc cà-vạt màu đỏ thẫm kia còn được dệt xen vào những sợi chỉ bằng vàng ròng. Bức chân dung của y treo trên khoảng tường ngay đằng sau lưng y, bây giờ trông y có vẻ hơi già hơn một chút so với chính mình vào thời điểm bức hình được họa ra, phải đến hơn năm trăm năm trước. Niccolò Machiavelli sinh năm 1469; theo ngữ nghĩa thì y lớn hơn tay người Anh năm mươi tám tuổi. Thật ra thì y đã chết vào năm
Hai người đang ngồi nơi phòng ăn trong căn nhà phố to lớn của Machiavelli gần Place du Canada ở
Mặc dù bọn chúng không hề mong đợi cuộc gọi này, nhưng ai nấy đều nhảy dựng khi chiếc loa đang đặt chính giữa bàn reo lên. Machiavelli với tay xoay tròn chiếc điện thoại kiểm tra danh tính người gọi trước khi trả lời. Một dãy số dài nhằng bắt đầu bằng những con số 31415 – y nhận ra ngay đó là một phần của dãy số pi – lướt cuộn khỏi màn hình. Khi y bấm nút Trả lời, tiếng tĩnh điện rít lên và nổ lốp bốp một hồi rồi mới nhạt dần thành một tiếng thì thầm khe khẽ nhẹ như gió thoảng.
“Chúng tôi rất thất vọng.” Tiếng nói trong điện thoại sử dụng một dạng rất cổ xưa của tiếng La-tinh được dùng vào những thế kỷ cuối cùng trước thời Julius Caesar. “Thật sự thất vọng.” Không thể nào khẳng định đó là tiếng nói của người nam hay nữ, và có nhiều lúc thậm chí có thể hình dung như thể có hai người đang cùng nói.
Machiavelli ngạc nhiên; y những tưởng sẽ nghe giọng nói rin rít từ chủ nhân Elder Đen tối của mình chứ – trước nay y chưa từng nghe tiếng nói thế này bao giờ. Nhưng Dee thì đã từng. Dù gương mặt
“Chúng tôi được bảo đảm rằng tất cả đều đã sẵn sàng... chúng tôi được cam đoan rằng Flamel sẽ bị bắt và bị giết chết... chúng tôi được nghe quả quyết rằng Perenelle sẽ bị xử lý dứt điểm, còn cặp song sinh sẽ bị tóm lấy và giao vào tay chúng tôi...”
Giọng nói kéo dài hòa vào tiếng tĩnh điện.
“Vậy mà Flamel vẫn đang tự do... Perenelle không còn bị nhốt trong xà-lim nữa, cho dù bà ta vẫn bị giam hãm trên hòn đảo. Cặp song sinh trốn thoát mất rồi. Và chúng tôi vẫn chưa có được trọn vẹn cuốn Codex. Chúng tôi thật sự thất vọng,” giọng nói kỳ quái lặp đi lặp lại.
“Các anh đã làm chúng tôi thất vọng,” những giọng nói thì thầm.
Không ai trong hai người phá vỡ bầu không khí im lặng kéo dài ngay sau đó, cả hai hoàn toàn ý thức rằng cuộc sống rất lâu rất dài của họ đến giờ này hệt như sợi chỉ mành treo chuông. Cả hai đều đầy quyền lực và quan trọng, nhưng chẳng ai là người không thể thay thế được cả. Các Elder Đen tối có những tên tay sai khác cũng thuộc loài người và họ có thể cử mấy người đó đi truy lùng Flamel và cặp song sinh. Còn đầy dẫy những người khác kia mà.
Tiếng tĩnh điện kêu sột soạt và nổ lốp bốp trên đường dây, và rồi một giọng nói mới cất lên. “Tuy nhiên, tôi có ý kiến rằng chúng ta chưa đến nỗi thua trắng đâu.”
Hàng thế kỷ luyện tập đã giữ cho gương mặt của Machiavelli không hề biểu cảm. Đây chính là giọng nói y đang mong đợi, giọng nói chủ nhân Elder của y, nhân vật đã thống trị đất nước Ai Cập trong một thời gian ngắn cách đây hơn ba ngàn năm trước.
“Cho phép tôi trình bày, hiện giờ chúng ta đã đi gần đến đích lắm rồi, trước nay chưa bao giờ gần đến thế. Chúng ta có lý do để hy vọng. Chúng ta đã xác nhận rằng bọn trẻ loài người kia đích thực là cặp song sinh được nhắc đến trong huyền thoại; thậm chí chúng ta đã từng chứng kiến một số cuộc biểu dương năng lượng của chúng. Nhà Giả kim đáng nguyền rủa và mụ vợ Nữ Phù thủy của hắn ta đang bị giam hãm và hấp hối sắp chết rồi. Tất cả những gì chúng ta phải làm là chờ đợi, và thời gian, người bạn tuyệt vời nhất của chúng ta, sẽ xử lý bọn chúng giúp chúng ta. Scathach đã mất tích và Hekate đã bị tiêu diệt. Mà chúng ta lại đang giữ cuốn Codex.”
“Nhưng chưa có đủ mà,” giọng nói nam-nữ thầm thì. “Chúng ta vẫn còn thiếu hai trang cuối.”
“Đồng ý. Nhưng chúng ta đã lấy được nhiều như thế bao giờ đâu. Chắc chắn đã đủ để khởi sự quá trình kêu gọi các Elder trở lại từ những Vương quốc Bóng tối xa xăm.”
Machiavelli cau mày, tập trung cao độ. Nghe đâu chủ nhân Elder của
“Nhưng cái chúng ta thiếu lại chính là Lời Hiệu triệu Cuối cùng. Không có nó, các anh chị em của chúng ta sẽ không thể áp dụng biện pháp cuối cùng để từ Vương quốc Bóng tối đi vào thế giới này được.”
Chủ nhân của Machiavelli điềm tĩnh trả lời. “Chúng ta vẫn đang quy tụ lực lượng của mình lại. Một số anh em chúng ta đã liều mình bỏ ra xa khỏi trần gian này; thậm chí họ đã mất hút ở tận bên kia các Vương quốc Bóng tối để đi vào những Thế giới Khác. Phải có ngày rộng tháng dài cho họ quay về. Bây giờ chúng ta cần phải kêu gọi họ trở lại, lôi kéo họ trở vào các Vương quốc Bóng tối tiếp giáp với cõi trần gian, để khi đến thời buổi thích hợp, họ chỉ cần áp dụng một biện pháp duy nhất để bước vào thế giới và chúng ta có thể hành động như một thể thống nhất để giành lại hành tinh này.”
Machiavelli nhìn
“Đây là thời buổi đã được Abraham tiên báo khi lần đầu tiên ông ta tạo nên cuốn Codex,” chủ nhân của Machiavelli nói tiếp. “Ông ấy có Tầm nhìn, ông ấy có thể trông thấy những dòng cuộn xoáy của thời gian. Ông ấy báo trước rằng thời kỳ này sẽ phải đến – và gọi đó là Thời Biến đổi, khi mà trật tự sẽ quay trở lại trên thế giới này. Chúng ta đã phát hiện ra cặp song sinh, chúng ta đều biết nơi có thể tìm thấy Flamel và hai trang cuối của cuốn Codex. Một khi chúng ta lấy được các trang sách ấy rồi, chúng ta có thể dùng năng lượng của cặp song sinh để cung cấp nhiên liệu cho Lời Hiệu triệu Cuối cùng.”
Đường dây lại nổ lốp bốp đầy tĩnh điện, và ở âm thanh nền, Machiavelli rõ ràng nghe thấy tiếng xì xào tán thành. Y nhận ra rằng có nhiều người khác nữa đang lắng nghe trên đường dây này, và y băn khoăn tự hỏi không biết có bao nhiêu Elder Đen tối tụ tập về. Y cắn chặt bên trong má để tự ngăn không cho mình mỉm cười trước hình ảnh của các Elder trong đủ loại lốt vỏ và diện mạo bề ngoài – người và không thuộc loài người, thú vật và quái thú – đang chăm chú lắng nghe câu chuyện nơi những chiếc điện thoại. Machiavelli đã chọn đúng thời điểm khi có một khoảng dừng giữa những giọng nói xì xào và y nói một cách cẩn thận, cởi bỏ hết mọi cảm xúc ra khỏi giọng nói của mình, sao cho nó nghe có vẻ trung dung và chuyên nghiệp.
“Vậy tôi có thể đề nghị các vị cho phép chúng tôi hoàn tất nhiệm vụ của mình được không. Hãy để chúng tôi đi tìm Flamel cùng với cặp song sinh.” Y biết bây giờ mình đang tham gia một trò chơi nguy hiểm, nhưng rõ ràng là có sự bất đồng ý kiến giữa hàng ngũ các Elder, và Machiavelli luôn là chuyên gia trong việc thao túng các tình thế như vậy. Y nghe rõ sự đòi hỏi trong giọng nói của chủ nhân y. Các Elder cực kỳ muốn có cặp song sinh và cuốn Codex: không có những thứ ấy, các Elder Đen tối còn lại không sao có thể quay về trần gian này. Và ngay lúc đó y nhận ra rằng cả hai người, y và
“Nói đi, giống người kia,” giọng nói nam-nữ sôi ùng ục.
Machiavelli nắm hai tay vào nhau, không nói một lời. Chân mày
“Nói đi!” giọng nói kia gầm lên, tiếng tĩnh điện rin rít và nổ lốp bốp.
“Ngài không phải là chủ nhân của tôi,” Machiavelli nói rất nhỏ nhẹ. “Ngài không thể ra lệnh cho tôi.”
Một âm thanh xì xì thật dài phát ra, giống như tiếng hơi nước thoát ra khỏi ấm. Machiavelli quay đầu nhè nhẹ, cố nhận định tiếng ồn. Rồi y gật đầu: đó là tiếng cười. Các Elder khác lấy làm buồn cười vì câu trả lời của y. Y đoán đúng; có sự bất đồng ý kiến trong hàng ngũ các Elder, và mặc dù có thể chủ nhân của
Đường dây kêu lách cách, tiếng ồn làm nền bao quanh thay đổi và rồi chủ nhân của Machivelli cất tiếng, rõ ràng có thể nghe được vẻ thích thú trong giọng nói rổn rảng của ông. “Ngươi đề nghị điều gì nào? Và hãy cẩn thận đó, giống người kia,” ông ta nói thêm. “Anh cũng khiến ta thất vọng. Chúng ta từng nghe quả quyết rằng Flamel và cặp song sinh sẽ không thể rời
“Bọn chúng đang ở
Đường dây kêu lách cách rồi tắt lịm. Rồi một tín hiệu báo máy đang bận vang khắp gian phòng.
Machiavelli nhấn vào nút Loa, tiếng ồn im bặt. “Bây giờ thì ông đã biết tôi cảm thấy thế nào khi ông dập máy nửa chừng lúc đang nói chuyện với tôi,” y nói nhỏ nhẹ.
“Vậy giờ chúng ta làm gì?”
“Chờ thôi. Tôi hình dung bọn họ đang bàn luận về tương lai của chúng ta đấy.”
Nụ cười của Machiavelli đầy cay đắng. “Họ sử dụng chúng ta. Nhưng họ không hề cần chúng ta. Tôi biết được là chỉ riêng ở
“Đúng, đúng, ông có thể thay thế được,”
“Ý ông là ông đã mất cả đời mà không sao bắt được họ ấy chứ,” Machiavelli nói, giọng y lừng chừng, và rồi kèm thêm một nụ cười ranh mãnh, “Quá gần, song lúc nào cũng lại quá xa.”
Nhưng mọi câu đối đáp
“Đây là quyết định của chúng tôi.” Chính chủ nhân Elder của
“Còn anh, Niccolò...” chủ nhân của Machiavelli lên tiếng nói. “Anh sẽ đi một chuyến đến Mỹ. Nữ Phù thủy hiện đang tự do thoải mái ở
“Nhưng tôi không có mối liên hệ nào ở
“Chúng tôi có tay chân thuộc hạ trên khắp nước Mỹ. Bây giờ thậm chí họ còn đang đi về hướng tây để chờ anh tới nữa kia. Chúng tôi sẽ bảo một tên hướng dẫn và phụ trợ cho anh. Ở Alcatraz, anh sẽ tìm thấy một đạo quân đủ loại đang ngủ thiếp trong các xà-lim, những sinh vật mà nòi giống người sẽ nhận ra từ những cơn ác mộng tối tăm nhất và những chuyện hoang đường kinh tởm nhất của bọn chúng. Chúng tôi không dự định sử dụng đạo quân này sớm như thế, nhưng bây giờ các biến cố đã xoay chuyển quá nhanh, nhanh hơn nhiều so với dự tính. Chẳng bao lâu nữa sẽ đến Thời Litha, điểm hạ chí. Vào giữa mùa hạ, luồng điện của cặp song sinh sẽ đạt đến thời kỳ mạnh nhất trong khi những rào cản giữa thế giới này với vô số Vương quốc Bóng tối lại ở vào thời điểm yếu nhất. Chúng tôi dự định sẽ giành lại thế giới này khỏi tay con người đúng vào ngày ấy.”
Ngay cả Machiavelli cũng không tài nào giữ được cho gương mặt mình không biểu lộ cảm xúc. Y nhìn
Tiến sĩ John Dee chồm đến gần bên chiếc điện thoại hơn nữa. “Các chủ nhân – và tôi biết là tôi nhân danh cả Machiavelli khi thưa điều này – chúng tôi rất vui mừng vì Thời Biến đổi hầu như đã ở trên chúng tôi và chẳng bao lâu nữa các ngài sẽ trở lại.” Hắn nuốt nước bọt một cách khó khăn và thở nhanh. “Nhưng xin các ngài cho phép tôi được nói lời cảnh báo rằng: thế giới các ngài đang trở lại không còn là thế giới mà ngày trước các ngài đã rời bỏ. Nòi giống người hiện đang có trong tay nền kỹ thuật công nghệ, hệ thống thông tin liên lạc, vũ khí... họ sẽ kháng cự lại,” hắn nói thêm với vẻ do dự ngập ngừng.
“Đích thị là họ sẽ kháng cự, Tiến sĩ ạ,” chủ nhân của Machiavelli nói. “Vì thế chúng tôi sẽ cho con người một thứ để chúng dồn sức tập trung vào, một thứ làm cạn kiệt tài nguyên của chúng và tiêu hao hết sự chú ý của chúng. Niccolò,” giọng nói lại tiếp tục, “khi anh chiếm lại Alcatraz, vực dậy những con quái thú trong các xà-lim và rồi thả chúng vào thành phố
“Vậy ra những con quái thú hiện đang ở trong các xà-lim của
“Anh sẽ được chỉ dẫn khi đến nước Mỹ. Nhưng trước hết, anh phải đánh bại được Perenelle Flamel đã.”
“Làm sao chúng ta biết bà ta vẫn còn ở đó? Nếu bà ta đã trốn thoát khỏi xà-lim của mình được, thì chắc chắn sẽ bỏ trốn khỏi hòn đảo được chứ?”
“Bà ta vẫn còn ở trên hòn đảo. Chính bà ta đã thả Areop-Enap, còn gọi là Lão Nhện. Đó là một kẻ thù nguy hiểm, nhưng không đến nỗi không thể bị đánh bại. Chúng tôi đã áp dụng các biện pháp để vô hiệu hóa mụ già ấy và chắc chắn rằng Perenelle sẽ ở lại đó cho tới khi anh đến nơi. Và Niccolò” – giọng nói của Elder trở nên cứng cỏi và đe dọa – “đừng lặp lại sai lầm của
Tay Pháp sư thẳng dựng người lên.
trời sớm tinh mơ trên
Perenelle Flamel chúi đầu trở lại vào căn chòi đổ nát trong Khu nhà ở của Cai tù. Bà xoa bàn tay lên lên xuống xuống chỗ cánh tay để trần, gạt sạch đi những giọt hơi ẩm chứa đầy muối. Bà vẫn mặc chiếc áo đầm mùa hè mỏng nhẹ không tay, bây giờ đã vấy bẩn lấm lem toàn bùn đất và gỉ sét, thế nhưng người phụ nữ cao ráo thanh lịch này không hề thấy lạnh. Mặc dù sử dụng nguồn năng lượng đang dần cạn kiệt của mình là điều hoàn toàn miễn cưỡng, nhưng bà vẫn phải điều chỉnh luồng điện, làm cho nhiệt độ cơ thể dâng cao vừa đến một mức dễ chịu. Bà biết nếu bà để mình bị nhiễm lạnh, bà sẽ không thể suy nghĩ mọi chuyện minh bạch được, và bà có cảm giác là sắp sửa phải cần đến tất cả nguồn năng lượng của mình trong vài giờ sắp tới đây.
Bốn ngày trước, Perenelle Flamel đã bị Tiến sĩ John Dee bắt cóc và giam vào
“Thời tiết này không bình thường,” Perenelle khe khẽ nói, có thể nghe được thoáng âm hưởng tiếng Pháp trong giọng nói của bà. Bà hít thở sâu và nhăn mặt. Đối với khứu giác đã được nâng cao của bà, làn gió thổi vào gần Vịnh San Francisco nghe như bị ô uế bởi cái mùi của thứ gì đó hôi thối và chết rũ lâu ngày, một dấu hiệu chắc chắn cho thấy rằng đang có chuyện bất thường.
Areop-Enap ngồi cao ngất trên bức tường của tòa nhà bỏ không. Bà nhện khổng lồ húp híp căng phồng mải miết bao lấy vỏ bọc của tòa nhà bằng thứ mạng màu trắng dinh dính. Hàng triệu con nhện, một số con lớn bằng chiếc đĩa, số khác còn nhỏ hơn hạt bụi, chạy lon ton qua bên kia tấm mạng đồ sộ đi vào vùng bóng tối u ám nhấp nhô dập dờn, dệt thêm những lớp tơ riêng của chúng vào tấm mạng ướt sũng. Không quay đầu lại, bà Elder xoay hai trong tám con mắt của bà tập trung vào người phụ nữ. Bà giở một trong mấy cái chân to mập của mình đưa thẳng lên không trung, lớp lông màu tím mút đầu ngả sang xám vẫy vẫy trong cơn gió. “Ừ, có cái gì đang đến... nhưng không phải Elder, mà cũng không phải con người,” bà ta nói ngọng nghịu.
“Một thứ gì đó đã từng ở đây rồi,” Perenelle nói dứt khoát.
Areop-Enap quay người xuống nhìn Perenelle. Tám con mắt nhỏ xíu đậu trên đỉnh đầu giống cái đầu người một cách quái dị của bà. Không có mũi mà cũng chẳng có tai, và cái miệng là một đường vạch nằm ngang chàng đầy những chiếc răng nanh cực độc dài nhằng. Hàm răng dữ tợn này khiến cho giọng nói của bà ngọng nghịu cách kỳ lạ. “Đã xảy ra chuyện gì?” bà hỏi bất thình lình, trong lúc đu thả mình rơi xuống đất trên một sợi tơ nhện.
Perenelle thận trọng đi từng bước qua bên kia khoảng sàn nhà lát đá, cố tránh những sợi tơ nhện thắt gút hễ cứ chạm đến đâu là dính chặt đến đó. Chúng có một độ dai chắc như kẹo cao-su. “Lúc nãy tôi đi xuống rìa nước,” bà nói nhỏ nhẹ. “Tôi muốn xem thử chúng ta cách đất liền bao xa.”
“Sao?” Areop-Enap vừa hỏi, vừa bước tới gần người phụ nữ hơn, thân hình vượt cao hẳn trên bà.
“Cách đây nhiều năm trước, tôi học được một câu thần chú của một pháp sư người Eskimo. Nó làm thay đổi tính bền của dòng nước chảy, biến dòng nước thành một thứ giống như bùn dinh dính. Thật hiệu quả, nó cho phép bà đi được trên nước. Những người Eskimo dùng câu thần chú này khi họ đi săn những con gấu Bắc cực bò ra trên những tảng băng nổi. Tôi muốn xem thử nó có tác dụng đối với làn nước muối ấm áp thế này không.”
“Rồi sao?” Areop-Enap hỏi.
“Tôi không có cơ hội thử.” Perenelle lắc đầu. Gom hết món tóc dài đen nhánh của mình bằng cả hai bàn tay, bà hất tóc ra sau vai. Thường thường, bà thắt tóc thành một bím dày, nhưng giờ đây bà để tóc xoã, và thậm chí bà còn bắt gặp nhiều sợi ánh bạc và xam xám hơn ngày hôm trước nữa. “Nhìn này.”
Areop-Enap bước đến gần hơn. Mỗi cẳng chân của bà ta đều to mập hơn cả thân mình của người phụ nữ, và ở mút đầu chân có một que nhọn hình móc câu, nhưng khi di chuyển lại không hề gây ra một tiếng động nào.
Perenelle đưa ra một nùi tóc. Một khúc dài khoảng một tấc được cắt gọn băng. “Tôi đang cúi người trên mặt nước, tập hợp luồng điện của tôi lại để thử câu thần chú xem, thì có thứ gì đó vọt ra khỏi mặt nước chỉ vừa vặn như một gợn sóng lăn tăn. Quai hàm của nó đã lạng thẳng qua mớ tóc của tôi.”
Lão Nhện kêu lên xì xì nhè nhẹ. “Bà có nhìn thấy nó không?”
“Chỉ một thoáng thôi, ngoài ra không còn gì hết. Tôi lo tập trung hết sức bươn mình bò trở lên bờ biển.”
“Một con rắn à?”
Perenelle đổi sang thứ tiếng Pháp thời tuổi trẻ của bà. “Không. Một người đàn bà. Da màu xanh lá, với hàm răng... nhiều cái răng nhỏ tí ti. Tôi bắt gặp lóe lên một cái đuôi cá khi nó nhúng mình trở lại vào làn nước.” Perenelle lắc đầu và thả tóc bà xuống, để yên chúng trên vai mình, rồi ngước nhìn bà Elder. “Nó có phải là con nhân ngư không nhỉ? Tôi chưa từng gặp một người nào sống ngoài biển.”
“Không phải đâu,” Areop-Enap lẩm bẩm. “Dù sao có thể đó là một trong số những Nữ thần biển đi lạc đường.”
“Những nữ thần của biển khơi... nhưng thế thì họ đang ở xa nhà họ lắm.”
“Đúng. Chúng thích những làn nước ấm hơn của vùng Địa Trung Hải, nhưng các đại dương trên thế giới này đều là nhà chúng cả. Tôi đã chạm trán với chúng ở khắp nơi, thậm chí trong cả những tảng băng của vùng Antarctic. Có đến năm mươi Nữ thần biển, và chúng luôn du hành đây đó chung với nhau... một điều khiến tôi nghĩ rằng hòn đảo này rất có thể đã hoàn toàn bị bao vây rồi. Chúng ta sẽ không trốn thoát bằng đường biển được. Nhưng điều đó không phải là mối quan tâm lớn nhất của chúng ta,” Areop-Enap lọng ngọng. “Nếu Nữ thần biển ở đây, thì có thể điều đó có nghĩa là cha của chúng, Nereus, cũng đang ở rất gần.”
Mặc dù đã kiểm soát được hơi ấm của mình, một cơn lạnh run vẫn chạy dọc ngược lên cột sống của Perenelle. “Ông Già Biển ư? Nhưng ông ta đang sống trong Vương quốc Bóng tối dưới lòng nước xa xôi nào đó kia mà và chỉ những việc liều lĩnh rất hiếm hoi mới đưa ông ta đến địa hạt này thôi. Ông ta đã không đến thế giới của chúng ta kể từ năm 1912 lận kia. Cái gì có khả năng mang ông ta trở lại vậy cà?”
Areop-Enap cười toe đầy ác ý để lộ cả hàm răng. “Tại sao à, bà đấy, Quý bà Perenelle ạ. Bà là phần thưởng. Bọn chúng muốn kiến thức và ký ức của bà. Bà và chồng bà nằm trong số hiếm hoi nhất của loài người: các người là những người bất tử mà không hề bị chủ nhân Elder nào sai khiến. Và bây giờ bà đang bị giam giữ trên
Tĩnh điện màu xanh lơ và trắng nổ lốp bốp dọc theo chiều dài mái tóc Perenelle, chầm chậm dâng lên và tỏa ra phía sau bà kết thành một vòng sáng lung linh đen tuyền. Đôi mắt bà chiếu sáng rực một màu xanh lá lạnh lẽo, rồi một luồng điện trắng như nước đá nở bung quanh người bà, lấp đầy bên trong ngôi nhà đổ nát một luồng ánh sáng mạnh mẽ. Một làn sóng các con nhện sẫm màu vội vã chạy trốn vào những vùng bóng tối. “Bà biết có bao nhiêu Elder Đen tối và bạn bè họ hàng của họ đã ra sức cố giết chết tôi không?” Perenelle hỏi gằn.
Areop-Enap nhún vai, một chuyển động của tất cả mấy cái chân thật đáng sợ. “Nhiều hả?” bà ta gợi ý.
“Và bà biết có bao nhiêu tên vẫn còn sống không?”
“Một ít?” Areop-Enap hỏi dò.
đã. Cháu có điện thoại.”
Sophie chúi đầu vào một ô cửa, thò tay vào trong túi lôi ra cái điện thoại di động. Pin điện thoại đã cạn sạch hồi ở trong Vương quốc Bóng tối của Hekate, nhưng Comte de Saint-Germain đã tìm cho cô một bộ sạc còn chạy được. Lật nghiêng nghiêng màn hình, cô bé nhìn săm soi vào một dãy số dài khác thường. “Cháu không biết là ai đây,” cô bé vừa nói, vừa nhìn cậu em trai rồi nhìn sang Nicholas.
Josh nhìn qua vai chị gái cậu. “Em không nhận ra số này,” cậu nói thêm.
“Bắt đầu bằng số mấy?” Nicholas vừa hỏi, vừa liếc sang, cố tập trung vào màn hình.
“Không, không, ba, ba...”
“Mã vùng của Pháp đó,” Flamel nói. “Trả lời đi; đó chỉ có thể là Francis.”
“Hoặc là
Nhưng cậu chưa kịp nói xong thì Sophie đã nhấn vào nút Trả lời. “Xin chào?” cô bé nói với vẻ thận trọng.
“Tôi đây!” Giọng Saint-Germain nhẹ và không có trọng âm, và Sophie có thể khẳng định ông ta đang ở ngoài đường vì tất cả mọi thứ tiếng ồn trong âm thanh nền. “Cho tôi nói chuyện với ông già. Mà đừng nói với thầy là tôi gọi thế nhé!”
Sophie nín nhịn không dám cười toe toét và trao điện thoại cho Nhà Giả kim. “Chú nói đúng; Francis đó. Ông ấy muốn nói chuyện với chú.”
Nicholas áp điện thoại lên một tai và lấy bàn tay còn lại bịt tai bên kia, cố ngăn bớt tiếng ồn của xe cộ. “A-lô?”
“Thầy đang ở đâu ạ?” Saint-Germain hỏi bằng tiếng La-tinh.
Nicholas nhìn quanh, cố tự định hướng. “Trên đường Marylebone, vừa lên khỏi trạm xe điện ngầm Regent’s Park.”
“Xin chờ máy chút; con có điện thoại bên đường dây kia.” Nicholas nghe Saint-Germain rời khỏi điện thoại và nghe tiếp âm thông tin được nói bằng một thứ tiếng Pháp cổ liến thoắng. “OK,” một lúc sau ông nói. “Thầy cứ đi thẳng xuống con đường rồi chờ bên ngoài Nhà thờ St. Marylebone. Sẽ có người cho xe đón thầy.”
“Làm sao tôi biết người tài xế ấy đang làm việc cho anh?” Nicholas hỏi.
“Ý tưởng hay. Thầy có lý do gì để tin rằng cuộc nói chuyện này không bị giám sát không ạ?”
“Chắc chắn cả hai tay người Ý và người Anh kia đều có các đầu mối cung cấp thông tin,” Nhà Giả kim nói một cách cẩn thận.
“Đúng vậy.”
“Và có cả một ủy ban không được hoan nghênh đang chờ đợi chúng tôi. Tôi hình dung bọn này đã báo cáo trước cả khi chúng tiến hành theo dõi chúng tôi lận kìa.”
“Chà.” Saint-Germain dừng lại một chút và rồi cẩn thận nói, “con cho rằng thầy đã xử lý vấn đề một cách kín đáo dè dặt kia mà.”
“Rất kín đáo. Nhưng...”
“Nhưng sao ạ?” Saint-Germain hỏi.
“Mặc dù tôi không sử dụng luồng điện của mình, nhưng một số năng lượng nhất định vẫn bị giải phóng ra. Việc đó chắc chắn đã thu hút sự chú ý, đặc biệt là trong thành phố này.”
Lại một đoạn dừng nữa; rồi Saint-Germain nói, “OK, con vừa gởi cho tay tài xế một tin nhắn. Cho phép con nhắc thầy nhớ lại một bữa tiệc con đã tổ chức ở
Đôi môi Nicholas nhếch lên thành một nụ cười. “Tôi nhớ.”
“Con vẫn còn giữ cuốn sách đó. Anh tài xế sẽ nói với thầy tựa sách là gì,” ông ta nói tiếp, giọng cất cao lên khỏi tiếng khua lộp cộp như búa nện trong âm thanh nền.
“Tiếng ồn gì mà ghê thế?” Flamel vừa hỏi, vừa đổi trở lại thành tiếng Anh.
“Mấy người công nhân đó ạ. Tụi con đang dựng lại cột nhà. Hình như đúng là có nguy hiểm thật sự sắp làm đổ sập các hầm rượu bên dưới, và có lẽ kéo theo nó cả đến nửa con phố.”
Nicholas hạ giọng. “Anh bạn cũ. Tôi không thể nói với anh là tôi tiếc như thế nào vì những rắc rối tôi đã mang lại cho nhà anh. Tất nhiên tôi sẽ bù đắp phần thiệt hại cho anh.”
Saint-Germain cười khúc khích. “Xin thầy đừng dằn vặt mình nữa. Con chẳng tốn kém gì cả. Con đã bán bản quyền về câu chuyện này cho một tờ tạp chí. Phí thu được còn cao hơn tiền sửa sang lại ngôi nhà, và tin tức báo chí đưa ra thật vô giá; album mới của con đang tăng vọt trong các biểu đồ thống kê số lượt tải về... nếu không thì ắt hẳn đó phải là điều ngược lại,” ông nói thêm rồi phá lên cười.
“Câu chuyện nào vậy?” Nicholas vừa hỏi, vừa liếc qua hai đứa nhỏ sinh đôi.
“Sao, tất nhiên là vụ nổ khí gas đã làm hư hại nhà con ấy chứ gì nữa,” Saint-Germain nói nhẹ nhàng. “Con phải đi đây. Con sẽ giữ liên lạc. Và ông bạn cũ ơi” – ông ấy dừng một chút – “hãy cẩn thận. Nếu có cần bất cứ gì – con nói là bất cứ đấy nhé – thì thầy biết làm thế nào để liên lạc với con rồi đó.”
Nicholas nhấn nút Tắt và trao lại điện thoại cho Sophie mà không nói gì. “Cậu ấy nói –”
“Tụi cháu nghe hết rồi.” Các giác quan được Đánh thức của cặp song sinh đã cho phép chúng nghe rõ cả hai bên trong cuộc nói chuyện vừa rồi. “Một vụ nổ khí gas hả chú?” Sophie hỏi.
“Đúng rồi, chẳng lẽ ông ấy lại bảo thiệt hại gây ra do một loài khủng long nguyên thủy nào đó, phải không nào?” Josh chọc ghẹo. “Ai thèm tin ông ấy kia chứ?” Thọc tay vào túi, cậu vội vã bước theo Flamel, lúc này đã sải chân xuống phố rồi. “Đi thôi, chị.”
Sophie gật đầu. Thằng em cô bé có lý. Nhưng cô bé cũng bắt đầu hiểu ra các Elder đã thu xếp thế nào để giữ sự tồn tại của họ trong vòng bí mật lâu như vậy. Đơn giản loài người không muốn tin rằng có ma thuật trên thế giới này. Không hề có trong thời đại khoa học kỹ thuật này. Những quái thú và pháp thuật luôn thuộc về thời quá khứ chưa được khai hóa hồi nguyên thủy cổ xưa mà thôi, vậy mà trong mấy ngày qua, ngày nào cô bé cũng được trông thấy bằng cớ chứng minh là có pháp thuật. Người ta vẫn thường thuật lại những điều không thể xảy ra; họ đã nhìn thấy những vật kỳ lạ nhất, những sinh vật quái dị nhất... mà không một ai tin họ hết. Hết thảy họ không thể nhất loạt sai lầm, nói dối, lẫn lộn hoặc là bị lạc lối được, phải vậy không? Nếu các Elder Đen tối và bè lũ tay sai của bọn họ chiếm giữ những vị trí quyền lực, thì đã hẳn tất cả những gì bọn họ phải làm là vứt bỏ các bản báo cáo, phớt lờ chúng hoặc là – như vừa xảy ra ở Paris – chế nhạo chúng trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Chẳng bao lâu thậm chí chính những người đã viết ra các bản tường thuật ấy, những người đã từng trông thấy một thứ gì đó bất bình thường, sẽ bắt đầu thấy nghi ngờ những bằng chứng từ chính các giác quan của bản thân họ. Chỉ mới hôm qua đây, Nidhogg, một sinh vật được cho là chỉ tồn tại trong truyện thần thoại, đã điên cuồng nổi cơn thịnh nộ xuyên khắp các đường phố chật hẹp của Paris, để lại đằng sau nó vết tích của sự tàn phá. Nó đã đập phá tan tành sang tận phía bên kia Champs-Elysées và xé toạc nguyên một phần bến cảng nổi tiếng thành từng mảng rồi mới lao mình xuống dòng sông. Chắc hẳn phải đến hàng chục người đã trông thấy nó; nhưng những câu chuyện kể của họ, những câu tuyên bố khẳng định của họ đã đi đâu mất rồi? Báo chí đều tường thuật biến cố này như một vụ nổ khí gas trong những hầm rượu cổ xưa.
Và rồi còn những tên gargoyle và grotesque trên Notre Dame đã sống dậy và trườn bò xuống công trình ấy nữa. Josh đã sử dụng luồng điện của nó để tăng cường cho luồng điện của bản thân cô bé, Sophie đã dùng pháp thuật Lửa và Không khí để biến những sinh vật ấy thành những thứ còn nhỏ hơn những vụn đá... vậy mà báo chí đã tường thuật chuyện đó như thế nào?
Những hiệu ứng của mưa acid.
Khi hai đứa chạy xuyên qua vùng ngoại ô nước Pháp trên chuyến xe lửa Eurostar, chúng đã đọc thấy những tin tức trực tuyến này trên máy tính xách tay của Josh. Mọi hãng thông tấn cung cấp tin tức ra công chúng trên thế giới này đều có một câu chuyện nào đó kể về các biến cố, nhưng tất cả các phiên bản họ kể ra đều dối trá như nhau. Chỉ trên những trang Web và các trang nhật ký mạng thật tình người ta mới tường thuật việc trông thấy Nidhogg tận mắt, cùng với những cảnh phim về con quái vật ấy được quay bằng điện thoại di động. Hàng chục bài viết đăng lên đã cho rằng những đoạn video và những bức ảnh trông như bị làm giả, họ so sánh chúng với những hình ảnh của Sasquatch* và quái vật hồ Loch Ness trước đây từng bị chứng minh là giả mạo. Tất nhiên, chỉ đến bây giờ, Sophie mới bắt đầu nghi ngờ rằng cả hai sinh vật đó cũng có thể là có thật.
Cô bé vội vã bắt kịp Flamel và cậu em trai.
“Đi gần vào chứ, Sophie,” Nicholas nói. “Cháu không ý thức được chúng ta đang ở trong mối nguy hiểm sao.”
“Vì vậy mà chú cứ nhắc tụi cháu hoài,” Sophie lầm bầm, dù ngay lúc này cô bé không hình dung ra mọi chuyện có thể tồi tệ đến mức nào.
“Mình đang đi đâu vậy chú?” Josh hỏi. Cậu vẫn còn chóng mặt choáng váng sau lần tiết ra hoóc-môn adrenaline đột ngột, và bây giờ cậu lại bắt đầu thấy run rẩy nữa.
“Đi xuống ngay đây thôi,” Nicholas vừa nói, vừa gật đầu về phía ngôi nhà thờ bằng đá trắng bên tay trái họ.
Sophie chợt nhìn cậu em mình và để ý thấy nó xanh lè, có một chút ánh sáng lấp lánh của những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán cậu. Cô bé nắm lấy cánh tay cậu và siết nhẹ. “Em thấy thế nào?” Cô biết những gì cậu em trai mình đang trải qua: tiếng ồn, mùi hương, âm thanh của thành phố đang bắt đầu áp đảo các giác quan mới được đánh thức của cậu. Cô bé đã trải nghiệm cùng một tình trạng quá tải về giác quan rất sốc như vậy khi Hekate đánh thức cô. Nhưng trong khi Bà Phù thủy Endor và Joan đã giúp cô kiểm soát luồng cảm xúc và cảm giác, thì lại không có ai giúp thằng em cô bé cả.
“Em ổn,” Josh nói nhanh. “Ừ mà, không khỏe lắm,” một lát sau cậu thừa nhận, khi trông thấy vẻ không tin trên khuôn mặt cô chị. Cô bé đã trải qua sự biến đổi y hệt vậy; cô biết cậu đang cảm thấy ra sao. “Chỉ là mọi thứ...” Cậu ráng tìm đúng từ ngữ để nói.
“Chỉ là quá nhiều,” Sophie kết thúc giùm cậu.
Josh gật đầu. “Quá nhiều,” cậu đồng ý. “Thậm chí em còn có thể nếm được khí thải của xe hơi.”
“Mọi thứ rồi sẽ được điều chỉnh lại,” cô bé cam đoan, “và sẽ dễ chịu hơn. Hoặc có thể chỉ là em dần quen với nó thôi.”
“Em không nghĩ là em lại có thể quen với chuyện này được,” cậu vừa nói, vừa gục đầu xuống và hé nhìn ánh mặt trời chiếu sáng chói lòa xuyên qua những đám mây đen ngả sang màu xanh lơ. Ánh mặt trời lấp lánh trên đường phố còn sũng nước bắn những tia giận dữ đau đớn vào đôi mắt cậu. “Em cần một cặp kính râm.”
“Ý hay đó.” Sophie lúp xúp chạy lên phía trước vài bước. “Chú Nicholas, chờ chút đã,” cô bé gọi.
Mặc dù Nhà Giả kim có nhìn ngoái lại đằng sau, nhưng ông không hề ngừng lại. “Chúng ta không thể chậm trễ được,” ông cáu, và vẫn tiếp tục một nhịp bước nhanh nhẹn.
Sophie dừng lại ngay giữa đường và kéo cậu em trai đứng sựng lại với cô. Nicholas đã đi thêm được khoảng năm bảy bước rồi mới nhận thấy là hai đứa nhỏ sinh đôi không còn ở đằng sau ông nữa. Ông dừng lại và quay người, vẫy chúng bước tới. Cả hai đứa đều làm như không thấy ông, và khi ông sải bước quay trở lại về phía chúng, có một vẻ gì tối tăm và khó chịu nơi bộ mặt ông. “Tôi không có thì giờ cho những chuyện vớ vẩn thế này.”
“Chúng cháu cần cặp kính râm cho Josh, và cho cháu nữa,” Sophie nói, “và nước.”
“Chúng ta sẽ mua sau.”
“Chúng cháu cần chúng ngay bây giờ kia,” cô bé nói quả quyết.
Nicholas mở miệng định vọt ra câu trả lời, nhưng Josh đã bước tới trước một bước, đứng sát vào Nhà Giả kim. “Tụi cháu cần ngay bây giờ.” Có cái gì đó như vẻ ngạo mạn trong giọng nói cậu. Đứng trên khoảnh sân ở đằng trước ngôi thánh đường ở Paris, cảm nhận được nguồn năng lượng thô chảy xuyên qua thân thể cậu, quan sát những tên gargoyle bằng đá được làm cho sống dậy bị vỡ tan thành bụi, ông nhận ra ngay sức mạnh của cậu và cô chị gái mạnh mẽ đến dường nào. Ngay lúc này có thể chúng cần đến Nhà Giả kim, nhưng ông cũng cần đến chúng kia mà.
Nicholas nhìn vào đôi mắt xanh lơ sáng quắc của cậu con trai, và bất kể ông đã nhìn thấy gì trong đó đều khiến ông phải gật đầu và quay trở lại đến một dãy cửa hàng. “Nước và mắt kính,” ông nói. “Mắt kính có cần phải có màu đặc biệt gì không?” ông hỏi với vẻ mỉa mai.
“Màu đen ạ,” hai đứa nhỏ sinh đôi đồng thanh trả lời.
Sopie đứng với Josh bên ngoài cửa tiệm. Cô bé mệt lả người, nhưng cô biết thậm chí Josh còn cảm thấy tệ hại hơn. Bây giờ mưa đã ngớt, đường phố bắt đầu đông đúc. Những người thuộc cả chục quốc tịch khác nhau đi bộ qua lại, tán gẫu với nhau bằng đủ mọi thứ ngôn ngữ.
Thình lình Sophie nghiêng đầu qua một bên, chân mày nhướng lên cau lại.
“Có chuyện gì không ổn à?” Josh hỏi ngay.
“Đâu có gì không ổn,” cô nói chầm chậm, “chỉ là...”
“Cái gì vậy?”
“Chị nghĩ chị có thể nhận ra một số trong những lời người ta đang nói.”
Cậu em trai quay người dõi theo ánh mắt cô. Hai người phụ nữ đang tán gẫu sôi nổi với nhau, họ mặc áo a-ba dài mềm rũ của các nước Trung Đông, đầu che kín và khuôn mặt họ giấu đằng sau những chiếc áo burka.
“Họ là chị em... Họ sắp đi thăm bác sĩ ngay nơi khúc quanh nơi góc phố ở đường Harley...,” Sophie nói với vẻ ngạc nhiên.
Josh quay người và vén tóc cậu ra khỏi tai để nghe rõ hơn. Tập trung cao độ, cậu tách ra được tiếng nói của hai người phụ nữ. “Sophie, em không thể nhận ra từ nào trong số những từ họ đang nói; em nghĩ họ đang nói tiếng Ả Rập mà.”
Hai doanh nhân ăn mặc lịch sự đi ngang qua, hướng về phía ga tàu điện Regent’s Park. Cả hai người họ đều đang nói chuyện qua điện thoại di động.
“Người bên trái đang nói chuyện với vợ ông ta ở
Josh quay đầu lại lần nữa, bỏ qua dòng xe cộ và vô số những tiếng ồn khác của thành phố. Bất chợt, cậu thấy rằng bằng cách tập trung vào hai doanh nhân kia, cậu có thể phân biệt được riêng từng lời. Khả năng nghe của cậu sắc sảo đến nỗi cậu có thể nghe những tiếng nói nhỏ xíu ở đầu bên kia của chiếc điện thoại di động. Nhưng không ai trong hai người đó nói tiếng Anh cả. “Làm sao chị có thể hiểu được?” cậu hỏi.
“Chính là kiến thức của Bà Phù thủy Endor,” Nicholas nói. Ông vừa bước ra khỏi cửa tiệm đúng vào lúc nghe câu hỏi của Josh. Ông kéo hai cặp kính râm rẻ tiền giống hệt nhau từ trong một cái túi giấy ra và trao cho hai đứa. “E rằng không phải là hàng thiết kế riêng.”
Sophie trượt cặp kính râm lên mặt. Sự dễ chịu đến ngay tức thì, và cô bé có thể thấy qua vẻ mặt của cậu em trai, là cậu cũng cảm thấy y như vậy. “Nói nghe coi,” cô nói. “Chị nghĩ đó chỉ là quá nhiều thứ cổ xưa bà ấy đã để lại cho chị. Chị không nhận thấy bất kỳ điều nào trong chúng là có ích cả.”
Nicholas trao hai chai nước, và cặp song sinh cùng bước phía sau khi ông đi xuống con đường hướng về nhà thờ St. Marylebone. “Bà Phù thủy đã chuyển tất cả kiến thức của bà cho cháu khi bà bọc cháu trong tấm liệm không khí. Chú thừa nhận thật là quá nhiều, cháu không thể xử lý hết được. Nhưng chú không biết bà ấy sẽ làm như vậy,” ông nói thêm thật nhanh, khi nhìn thấy vẻ cau có hiện ra trên mặt Josh. “Hoàn toàn ngoài sự mong đợi của chú và hoàn toàn không phù hợp với tính cách của bà ấy. Các thế hệ trước đây, các nữ thầy cúng học với Bà Phù thủy cả đời họ để được thưởng chỉ một mảnh nhỏ nhất kiến thức của bà mà thôi.”
“Tại sao bà ấy lại cho cháu tất cả?” Sophie hỏi, cảm thấy thật bối rối.
“Đó vẫn còn là điều bí ẩn,” ông thú nhận. Len qua một khoảng hở giữa làn xe cộ, Nhà Giả kim lùa hai đứa nhỏ sinh đôi qua bên kia đường Marylebone. Họ đã đến gần đủ để nhìn thấy phần mặt chính tao nhã của ngôi nhà thờ ngay trước mắt. “Chú biết Joan đã giúp cháu sàng sẩy chọn lọc hết các kiến thức mà Bà Phù thủy đã cho cháu.”
Sophie gật đầu. Ở Paris, trong khi cô bé đang ngủ, Joan Arc đã dạy cô các kỹ thuật kiểm soát mớ lộn xộn thần bí và những thông tin mơ hồ khó hiểu chảy lan khắp cả trí não cô.
“Chú tin rằng những gì bây giờ đang diễn ra là ký ức và kiến thức Bà Phù thủy Endor đang dần dần thấm vào ký ức của riêng cháu. Không chỉ đơn giản biết những gì Bà Phù thủy biết, mà cháu cũng sẽ biết làm thế nào bà ấy biết được nữa kia. Thực ra mà nói, ký ức của bà ấy đang dần trở thành của cháu đó.”
Sophie lắc đầu. “Cháu không hiểu.”
Cuối cùng họ cũng đến được nhà thờ. Nicholas leo lên hai bậc và nhìn lên nhìn xuống con đường, nhanh chóng đảo mắt qua những người khách bộ hành, vặn người nhìn ra phía Regent’s trước khi quay trở lại bên hai đứa nhỏ song sinh. “Điều đó cũng giống như sự khác biệt giữa việc xem người ta chơi trò chơi với việc chính mình tham gia vào trò chơi. Khi cháu gặp Saint-Germain,” ông nói thêm, “ngay lập tức cháu biết được những gì Bà Phù thủy biết về cậu ấy, đúng không nào?”
Sophie gật đầu. Một ý tưởng đến với cô bé như một ánh sáng lóe lên trong đầu rằng Bà Phù thủy Endor không thích mà cũng không tin tưởng Comte de Saint-Germain.
“Bây giờ hãy nghĩ đến Saint-Germain đi,” Nhà Giả kim gợi ý.
Cô bé đưa mắt nhìn cậu em trai, cậu gật đầu, đôi mắt không thể thấy được ẩn đằng sau cặp kính tối hù. Sophie lật giở cổ tay phải của mình. Trên mặt dưới cánh tay cô bé là một vòng tròn màu vàng ánh kim với một chấm màu đỏ ngay chính giữa. Khi dạy Pháp thuật Lửa cho cô, Saint-Germain đã đốt vết xăm này vào da thịt nơi cổ tay cô mà không hề gây đau đớn. Việc nghĩ đến Saint-Germain đã mang lại một dòng cuồn cuộn những ký ức bất ngờ: những ký ức tự nhiên mãnh liệt thật sáng chói. Sophie nhắm mắt lại và trong chốc lát cô bé thấy mình đang ở một thời kỳ khác, một nơi chốn khác.
Cô đang đứng trong một phòng khiêu vũ rộng lớn, mặc một chiếc áo đầm dài nặng nề đến nỗi cảm thấy như nó ấn cô xuống đất. Thật là khó chịu đến ngạc nhiên, nhức nhối và bực bội, siết chặt, co khít và dồn nén o ép khắp mọi chỗ. Bầu không khí trong phòng khiêu vũ nồng nặc mùi sáp nến và quá nhiều mùi dầu thơm, hương thơm tràn ngập, mùi thức ăn nấu chín, và những thân thể không hề tắm rửa. Một đám đông xoay quanh cô, nhưng khi cô tiến về phía trước, một cách không có ý thức họ đều tránh đường cho cô, làm thông thoáng lối cô tiến đến phía người đàn ông trẻ ăn mặc trang phục màu tối với đôi mắt màu xanh lơ rất đáng chú ý. Đó là Francis, Comte de Saint-Germain. Anh ta đang nói tiếng Nga với một nhà quý tộc đến từ triều đình của ngài hoàng đế vị thành niên, Ivan VI. Cô thấy mình hiểu được những gì anh ta đang nói. Nhà quý tộc gợi ý rằng cô con gái út của Đại đế Peter,
Đôi mắt Sophie hấp háy mở ra và người cô bé lảo đảo. Cánh tay Josh vụt phóng ra chụp lấy và giữ cô lại. “Chuyện gì vậy?” cậu gặng hỏi.
“Chị đã ở đó...,” Sophie thì thầm. Cô bé lắc đầu nhanh. “Ở đây, ở
“Ký ức của Bà Phù thủy Endor đang trở thành ký ức của cháu,” Nicholas nói. “Kiến thức của bà ấy đang trở thành kiến thức của cháu. Rốt cuộc lại, tất cả những gì bà ấy biết, cháu sẽ biết.”
Sophie Newman rùng mình. Rồi đột nhiên cô nghĩ đến một điều thật đáng phải lo lắng. “Nhưng chuyện gì đang xảy ra với cháu?” cô bé hỏi. “Bà Phù thủy có hàng ngàn năm ký ức và kinh nghiệm; cháu chỉ mới có mười lăm năm rưỡi, mà cháu không nhớ được hết thảy chúng nữa. Ký ức của bà ấy có thể đẩy ký ức của cháu ra mất không?”
Nicholas chớp mắt một cách khó khăn. Rồi ông gật đầu từ từ. “Chú chưa nghĩ đến điều đó, nhưng đúng, cháu nói đúng, có thể lắm,” ông nói rất nhanh. “Chúng ta phải bảo đảm rằng chuyện đó không được xảy ra.”
“Tại sao ạ?” cặp song sinh cùng hỏi một lần.
Nicholas bước xuống mấy bậc thềm và đứng cạnh bên chúng. “Bởi vì con người chúng ta không có gì hơn ngoài toàn bộ ký ức và kinh nghiệm của chúng ta. Nếu ký ức của Bà Phù thủy Endor đẩy ký ức của cháu ra, vậy thì thật tình mà nói, cháu đã trở thành chính Bà Phù thủy Endor mất rồi.”
Josh kinh hãi. “Vậy chuyện gì xảy đến với Sophie?”
“Nếu chuyện đó xảy ra, sẽ không còn Sophie nữa. Sẽ chỉ có Bà Phù thủy thôi.”
“Vậy là bà ta đã cố tình làm thế,” Josh nói, cơn giận dữ dâng lên trong giọng nói cậu đủ để lôi kéo sự chú ý của một nhóm khách du lịch đang chụp ảnh mặt đồng hồ của nhà thờ. Cô chị song sinh thúc nhẹ vào cậu và cậu hạ giọng xuống thành một tiếng thì thào khàn khàn. “Đó là lý do tại sao mụ ta tặng cho Sophie toàn bộ kiến thức của mình!” Nicholas chợt lắc đầu, nhưng Josh cứ nhấn mạnh. “Một khi ký ức của mụ ta hoàn toàn chiếm trọn, thì mụ ta sẽ có một thân thể mới hơn, trẻ hơn, hơn hẳn cái thân xác đui mù của mụ ta. Chú không thể chối cãi chuyện này được.”
Nicholas im như thóc và quay người đi chỗ khác. “Chú phải... chú phải suy nghĩ thêm về chuyện này mới được,” ông nói. “Từ trước tới nay chú chưa bao giờ nghe nói đến bất cứ thứ gì giống chuyện này.”
“Nhưng trước giờ chú chưa bao giờ nghe nói Bà Phù thủy cho toàn bộ kiến thức mình cho một người nào, phải vậy không?” Josh hỏi gằn.
Sophie chộp lấy cánh tay Nhà Giả kim và bước tới đứng ngay trước mặt ông. “Chú Nicholas, tụi cháu phải làm gì?” cô bé hỏi.
“Chú không biết nữa,” ông thú nhận cùng với một tiếng thở dài mệt mỏi. Và đúng ngay lúc đó, trông ông thật già cỗi, với những đường lằn hằn sâu trên vầng trán và quanh khóe mắt, những vết nhăn chạy dọc theo hai bên mũi, những rãnh sâu nhấn giữa cặp lông mày.
“Vậy thì ai mới là người biết?” cô bé cáu kỉnh, giọng nói có vẻ sợ hãi.
“Perenelle,” ông nói, và rồi gật đầu mạnh mẽ. Perenelle của chú sẽ biết phải làm gì. Chúng ta phải đưa cháu trở về với cô ấy. Cô ấy chắc chắn có thể giúp được. Trong khi chờ đợi, cháu phải tập trung vào việc mình là Sophie. Cháu phải tập trung vào danh phận của chính mình.”
“Làm thế nào bây giờ?”
“Hãy nghĩ đến quá khứ của cháu, ba mẹ cháu, các trường nơi cháu đã học, những người cháu đã gặp gỡ, những bạn bè, những kẻ thù nghịch, những nơi cháu từng tham quan.” Ông quay sang Josh. “Cháu phải giúp mới được. Hãy hỏi chị cháu những câu hỏi về chuyện quá khứ, về mọi thứ tụi cháu đã cùng làm với nhau, những nơi tụi cháu đã sống. Và Sophie,” ông vừa nói thêm, vừa quay người sang nhìn đứa con gái nhỏ, “mỗi lần cháu bắt đầu trải nghiệm một trong những ký ức của Bà Phù thủy Endor, thì hãy cố tình tập trung vào một chuyện khác, một kỷ niệm của chính cháu. Cháu phải chiến đấu để ngăn không cho ký ức của Bà Phù thủy áp đảo ký ức của cháu cho tới khi chúng ta tìm được cách kiểm soát chuyện này.”
Bất chợt, một chiếc taxi
Không ai nhúc nhích gì.
“Chúng ta không có suốt cả ngày đâu. Vào đi.” Có một thoáng chất Nam Mỹ trong âm sắc phong phú của giọng nói ấy.
“Chúng tôi đâu có gọi taxi,” Flamel nói, thất vọng liếc lên liếc xuống con đường. Saint Germain đã nói sẽ gởi một ai đó đến với họ, nhưng Nhà Giả kim không bao giờ hình dung đó sẽ là một thứ bình thường như một chiếc taxi ở
“Chiếc xe này đặc biệt được đặt riêng cho ông, thưa ông Flamel.” Dừng lại một chút, giọng nói ấy bồi thêm, “Tác giả của một trong những cuốn sách buồn chán nhất tôi từng đọc phải, cuốn Triết học Sơ lược.”
“Buồn chán ư?” Nicholas giật mạnh cho cánh cửa mở bung ra và đẩy hai đứa nhỏ sinh đôi vào bóng tối. “Nó được công nhận hàng thế kỷ là một tác phẩm của thiên tài đấy!” Bước vào trong, ông dập mạnh cánh cửa. “Có lẽ Francis bảo anh nói vậy phải không?”
“Ông nên thắt đai an toàn lại thì hơn,” tay tài xế ra lệnh. “Chúng tôi đã có đủ loại khách hàng kiểu này rồi, không hề thân thiện và tất cả đều khó ưa.”