Nourishing soul, Broadening mind

Góp Ý

Người giúp việc (the Help) - Chương 2
Update Date: 10/17/2011

Bạn không bao giờ biết họ đang sống ở đây, nhưng quận Jackson, bang Mississippi, có tới hai trăm ngàn dân. Tôi đọc báo thì biết thế và thấy lạ, họ sống ở đâu được nhỉ? Dưới lòng đất chăng? Bởi vì tôi quen mặt hầu khắp mọi người sống phía bên này cầu, chưa kể bao nhiêu gia đình da trắng nữa, và chắc chắn tất cả bọn họ cộng lại chẳng được đến số hai trăm ngàn.

Sáu ngày một tuần, tôi bắt xe buýt đi qua cầu Woodrow Wilson sang chỗ cô Leefolt và tất cả bạn bè người da trắng của cô sống, khu Belhaven. Ngay sát Belhaven là khu buôn bán và thủ phủ bang. Tòa nhà nghị viện to lắm, nhìn ngoài trông đẹp thật nhưng tôi chưa được vào trong bao giờ. Tôi cứ thắc mắc không hiểu người ta phải trả bao nhiêu tiền để lau dọn hết chỗ đó.

Xuôi theo con đường kéo từ Belhaven xuống là khu Woodland Hills của người da trắng, rồi tới rừng Sherwood, một dải gồm toàn những cây sồi lớn rêu phủ lòa xòa trải dài hàng dặm. Đến giờ chỗ ấy vẫn chưa có người ở, nhưng nó ở đó đợi lúc mấy người da trắng sẵn sàng chuyển tới địa điểm mới. Rồi đến vùng nông thôn, nơi cô Skeeter sống trên đồn điền bông Longleaf. Cô ấy không biết, nhưng tôi đã từng hái bông ở đó hồi năm 1931, đúng đợt Suy thoái, hồi đó chúng tôi chẳng có gì ăn cả, ngoài pho mát nhà nước cho.

Thế nên Jackson chỉ gồm một loạt khu người da trắng nối tiếp nhau và vài khu mới đang manh nha dọc theo đường cái. Người da màu sống trong khu tách biệt, như một tổ kiến lớn, bao bọc xung quanh là đất công không được mua bán. Dân số tăng, nhưng chúng tôi không được mở mang thêm nữa. Khu chúng tôi sống cứ ngày một đông đúc thêm.

Chiều hôm đó tôi bắt xe buýt số sáu, đi từ Belhaven đến phố Farish. Trên xe hôm nay toàn người giúp việc đang trở về nhà, trên người vẫn còn bận nguyên bộ đồng phục trắng. Chúng tôi tán gẫu và cười đùa với nhau như thể xung quanh chẳng còn ai khác – chẳng phải vì chúng tôi ngại khi có người da trắng đi cùng đâu, nhờ cô Parks nên giờ chúng tôi thích ngồi chỗ nào chả được – chỉ vì tình cảm thân thiện thôi.

Tôi nhác thấy Minny ngồi ở chính giữa hàng cuối xe. Minny lùn và béo, tóc xoăn đen nhánh sáng bóng. Cô ngồi bắt chéo chân, hai cánh tay nung núc thịt khoanh lại. Kém tôi những mười bảy tuổi, Minny có thể nâng bổng chiếc xe buýt này lên cao quá đầu nếu thích ấy chứ. Một bà già như tôi thật may mắn vì có cô làm bạn.

Tôi chọn một ghế phía trước cô, rồi ngoái cổ lại hóng. Ai cũng thích nghe Minny buôn chuyện.

“... thế là tôi bảo, bà Walter, thiên hạ chẳng khoái nhìn cặp mông trắng ởn của bà hơn cặp mông đen sì của tôi đâu. Thôi, vào nhà mặc quần nhớn quần bé đi nào.”

“Ở hiên trước nhà á? Trần như nhộng cơ à?” Kiki Brown hỏi.

“Mông bà ta sệ xuống tận gối ấy.”

Cả xe cười rộ lên và lắc đầu.

“Trời thần ơi, bà già đó điên quá,” Kiki nói. “Minny này, tôi thật chả hiểu làm sao chị lại toàn vớ phải mấy bà chủ hâm thế chứ lị.”

“Ô, thế bà Patterson nhà cô thì bình thường chắc?” Minny đốp lại Kiki. “Xời, bà ta cũng có suất trong hội các bà hâm đấy nhá.” Cả xe lại cười rầm rầm vì Minny không thích ai khác ngoài mình nói xấu bà chủ da trắng của cô. Đó là công việc của cô và cô có quyền.

Xe buýt chạy qua cầu và dừng lại ở bến đầu tiên thuộc khu da màu. Chừng chục người lục tục xuống xe. Tôi chuyển xuống ngồi vào chiếc ghế trống bên cạnh Minny. Cô cười, đoạn huých khuỷu tay chào tôi. Rồi cô ngả lưng ra cho thoải mái vì trước mặt tôi cô chẳng cần làm bộ làm tịch nữa.

“Cô thế nào? Sáng nay phải ủi li váy à?”

Tôi cười và gật đầu. “Mất tiếng rưỡi cơ đấy.”

“Hôm nay ở hội bài cô cho bà Walter ăn gì? Cháu mất đứt cả buổi sáng nay để làm bánh caramen, thế mà bà ấy chẳng đụng vào tí nào.”

Nghe thế tôi bỗng sực nhớ ra những gì cô Hilly nói bên bàn chơi bài hôm nay. Phải những bà chủ da trắng khác thì chẳng ai thèm để ý làm gì, nhưng cả đám chúng tôi đều muốn biết liệu cô Hilly có theo dõi mình không. Tôi không biết nên nói thế nào cho phải.

Tôi nhìn ra cửa sổ, bệnh viện của người da màu vụt qua trước mắt, rồi đến sạp bán hoa quả. “Ta nghĩ là mình đã nghe cô Hilly nói gì đó về chuyện ấy đấy, rằng mẹ cô ta dạo này gầy đi.” Tôi lựa lời cẩn thận hết mức có thể. “Cô ta bảo là có khi bà cụ bị suy dinh dưỡng.”

Minny nhìn tôi. “Cô ta nói thế á?” Riêng cái tên đó đã đủ khiến mắt cô nheo lại. “Cô Hilly còn nói gì nữa không ạ?”

Có lẽ tôi cứ nói toạc ra cho xong. “Ta nghĩ cô ta để ý đến cháu rồi đấy, Minny ạ. Cháu... cháu phải dè chừng cô ta thật cẩn thận vào.”

“Cái cô Hilly đấy phải dè chừng cháu thì có. Cô ta bảo gì cơ, cháu mà không biết nấu ăn á? Cô ta bảo cái mớ xương già đó không chịu ăn uống vì cháu không cho bà ta ăn ấy à?” Minny đứng bật dậy, xốc chiếc túi lên tay.

“Ta xin lỗi, Minny, ta chỉ muốn kể để cháu biết đường mà tránh cô ta thôi...”

“Cô ta mà dám nói thế với cháu, cháu sẽ cho xơi ngay mấy cú của Minny này thay bữa trưa.” Nói rồi cô dậm chân thình thịch xuống bậc cửa xe.

Tôi ngó qua cửa sổ, nhìn cô quày quả bước về nhà mình. Cô Hilly chẳng phải tay vừa đâu. Trời thần ơi, có lẽ tôi nên giữ riêng chuyện đó cho mình thôi.

Mấy buổi sáng sau đó, tôi xuống xe buýt, đi bộ men theo con phố tới nhà cô Leefolt. Ngay trước nhà có một chiếc xe tải cũ chở gỗ đậu chình ình. Hai người đàn ông da màu ngồi trong khoang lái, một người đang uống cà phê, người kia ngồi ngủ gà gật. Tôi bước ngang qua, rồi đi thẳng vào bếp.

Sáng nay ông Raleigh Leefolt vẫn chưa rời nhà, chuyện này hiếm gặp lắm. Lần nào ở đây, trông ông cũng như thể đang đếm từng phút cho tới lúc được quay về với công việc kế toán của mình ấy. Ngay cả những ngày thứ Bảy cũng vậy. Nhưng hôm nay ông đang sôi tiết vì việc gì đó.

“Đây là nhà tôi và tôi phải trả tiền cho bất cứ thứ tử tiệt gì bước chân vào đây á!” Ông Leefolt gào lên.

Cô Leefolt tong tả chạy theo chồng với kiểu cười cho thấy cô đang bực mình. Tôi bèn trốn tịt trong phòng giặt. Đã hai ngày kể từ cuộc nói chuyện về nhà vệ sinh và tôi đã hy vọng mọi việc thế là xong. Ông Leefolt mở cửa sau ra nhìn chiếc xe tải đang đỗ phía ngoài, rồi đóng sầm cửa lại.

“Nào quần áo giày dép mới, nào những chuyến xuống New Orleans thăm mấy bà xơ chị em của cô, tôi chịu tất, nhưng thế này thì quá lắm rồi.”

“Nhưng nó sẽ tăng thêm giá trị cho căn nhà. Hilly bảo thế!” Vẫn ở trong phòng giặt, nhưng tôi hầu như nghe thấy cô Leefolt đang gắng giữ kiểu cười ấy trên mặt.

“Đào tiền đâu ra để trả đây hả! Mà nhà này phải nghe nhà Holbrook sai phái từ bao giờ thế!”

Trong chốc lát không khí bỗng lặng như tờ. Rồi tôi nghe thấy tiếng chân xỏ pyjama liền vớ đi lạch bạch khe khẽ.

“Chaaa... cha?”

Tôi ra khỏi phòng giặt và bước vào bếp vì Mae Mobley là phận sự của tôi.

Ông Leefolt đã quỳ xuống ngang tầm con bé, miệng nở một nụ cười cứng quèo như đúc bằng cao su. “Con yêu, thử đoán xem nào?”

Bé Con cười toe đáp lại. Nó đang chờ đợi một điều bất ngờ thú vị.

“Con khỏi cần học đại học nhé, có thế mấy bà bạn của mẹ con mới không phải dùng chung nhà vệ sinh với người giúp việc nữa.”

Ông đùng đùng đi ra và đóng sầm cửa lại, mạnh đến mức Bé Con phải chớp chớp đôi mắt.

Cô Leefolt ngó xuống con bé, rồi lúc lắc ngón tay. “Mae Mobley, con biết là con không được tự tiện trèo ra khỏi cũi cơ mà!”

Bé Con hết nhìn sang cánh cửa bố nó vừa đóng sập lại, rồi nhìn mẹ đang cau có với nó. Bé Con bé bỏng của tôi nuốt nước bọt, như thể đang cố hết sức để khỏi bật khóc.

Tôi hối hả bước qua cô Leefolt, đoạn bế bổng Bé Con lên, rủ rỉ, “Mình ra phòng khách chơi với bọn đồ chơi biết nói đi. Con lừa bảo gì ấy nhỉ?”

“Nó cứ trở dậy suốt. Sáng nay tôi đặt nó ngủ đến ba lần mà không xong.”

“Vì có người cần thay tã đây này. Eo ôiiii.”

Có vẻ hơi bẽ, cô Leefolt nói, “À, tôi không để ý...” nhưng mắt đã phóng qua cửa sổ dính chặt vào chiếc xe chở gỗ rồi.

Tôi đi vào nhà trong, lửa giận bốc lên bừng bừng khiến chân tôi dậm thình thịch. Bé Con đã nằm trên giường từ tám giờ tối qua, dĩ nhiên là nó cần thay tã rồi! Cô Leefolt thử ngồi trên đống cứt đái suốt mười hai giờ xem có dậy không!

Tôi đặt Bé Con lên bàn thay tã, cố ghìm cơn giận xuống. Bé Con ngước lên nhìn tôi chăm chú trong khi tôi cởi chiếc tã của nó ra. Rồi nó giơ bàn tay bé xíu lên, chạm vào miệng tôi thật khẽ.

“Mae Mo hư,” nó nói.

“Không, cưng à, con có hư đâu.” Tôi nói, tay vuốt lên tóc nó. “Con ngoan mà. Rất ngoan là đằng khác.”

* * *

Tôi sống trên đại lộ Gessum, tôi đã thuê chỗ này từ năm 1942. Bạn có thể nói Gessum sở hữu rất nhiều nét tính cách. Nhà cửa đều bé tí, nhưng sân trước mỗi nhà mỗi khác – có mảnh lúp xúp bụi rậm nhưng tịnh chẳng có ngọn cỏ nào, hệt như một ông già hói. Những mảnh khác lại đầy những khóm đỗ quyên cùng hoa hồng và thảm cỏ dày mượt. Còn sân nhà tôi ấy à, tôi đồ là ở tầm lưng chừng.

Tôi có vài bụi hoa trà đỏ trồng trước nhà. Bãi cỏ nhà tôi thì chỗ rậm chỗ thưa và vẫn còn một dải cỏ vàng hoe to đùng, nơi chiếc xe tải nhỏ của thằng Treelore từng đậu suốt ba tháng ròng sau vụ tai nạn. Tôi chẳng trồng cây gì. Nhưng sân sau thì trông chẳng khác nào vườn Địa đàng. Đó là chỗ cô hàng xóm của tôi, Ida Peek, trồng rau.

Sân sau nhà Ida thì thôi khỏi nói, ngổn ngang những là động cơ ô tô hỏng rồi tủ lạnh cũ và lốp xe vứt đi của chồng cô. Lúc nào anh ta cũng nói sẽ sửa nhưng chẳng bao giờ làm. Thế nên tôi bảo Ida sang sân nhà tôi trồng. Nhờ thế tôi khỏi phải lo dọn cây dọn cỏ, đã thế cô ấy còn cho tôi hái rau quả gì tùy thích nữa chứ, cũng đỡ được hai, ba đô-la một tuần cơ đấy. Những chỗ ăn không hết còn thừa, cô đem muối và cho tôi mấy lọ liền để dự trữ trong mùa đông. Lá củ cải xanh tươi, cà dái dê, đậu bắp, rồi đủ loại bầu bí. Tôi không biết cô làm cách nào để trừ sâu cho cà chua, ấy vậy mà cô làm được mới tài. Và rau lên tốt lắm.

Tối hôm đó, trời mưa như trút nước. Tôi mở một lọ bắp cải và cà chua Ida Peek tự muối ra ăn kèm lát bánh mỳ ngô cuối cùng còn sót lại. Sau đó tôi ngồi tính toán lại sổ sách vì vừa có hai sự thay đổi: giá vé xe buýt tăng lên năm mươi xu một lượt và tiền thuê căn nhà tôi ở tăng lên hai mươi chín đô-la một tháng. Tôi giúp việc cho cô Leefolt từ tám giờ sáng tới bốn giờ chiều, sáu ngày một tuần trừ thứ Bảy. Tôi được trả bốn mươi ba đô-la vào mỗi thứ Sáu, tổng cộng là 172 đô-la một tháng. Vậy là sau khi trả tiền điện, tiền nước, tiền gas, và tiền điện thoại, tôi còn lại mười ba đô-la và mười lăm xu một tuần để mua thực phẩm, may sửa quần áo, làm tóc, và đóng góp cho nhà thờ. Ấy là chưa kể tiền tem thư để thanh toán mấy thứ hóa đơn giờ đã là năm xu. Còn đôi giày tôi vẫn dùng khi đi làm thì mòn xơ mòn xác hết cả, trông như chúng sắp chết đói ấy. Một đôi giày mới có giá những bảy đô-la, nghĩa là tôi sẽ phải ăn bắp cải và cà chua muối tới khi biến thành ông Thỏ Br’er[1] mất thôi. Ơn Chúa vì còn có Ida Peek, không thì tôi chẳng có gì bỏ mồm cả.

Điện thoại reo inh ỏi làm tôi suýt nhảy dựng lên. Tôi còn chưa kịp chào hỏi gì đã nghe tiếng Minny xoa xỏa. Tối nay cô làm việc muộn.

“Cô Hilly sắp tống bà Walter vào trại dưỡng lão rồi. Cháu phải tìm việc khác thôi. Mà cô có biết bao giờ bà ta đi không? Tuần sau.”

“Ôi không, Minny.”

“Cháu cũng đã hỏi quanh, cháu gọi cho cả mười người rồi cơ. Nhưng chẳng ai thèm ừ hử gì cả.”

Tôi rất buồn phải nói là mình không hề ngạc nhiên. “Sáng mai ta sẽ hỏi cô Leefolt ngay, xem cô ấy có biết ai cần người giúp việc không.”

“Đợi cháu tí,” Minny nói. Tôi nghe tiếng bà Walter nói và Minny cự lại, “Bà nghĩ tôi là cái gì hả? Tài xế chắc? Mưa gió thế này đừng hòng tôi đưa bà đi chơi hội nọ hội kia nhá.”

Ngoài chuyện ăn cắp, thì cái vạ lớn nhất của những người làm nghề giúp việc là tật lắm mồm. May là cô ấy nấu nướng khéo, nhờ thế đôi khi cũng kéo lại được ít nhiều.

“Cháu đừng lo, Minny ạ. Chúng ta sẽ kiếm được cho cháu một người khác cũng điếc đặc, y như bà Walter ấy.”

“Cô Hilly cũng có bóng gió chuyện muốn cháu về làm giúp cô ấy đấy.”

“Gì cơ?” Tôi nói bằng giọng cứng rắn nhất có thể: “Cháu nghe đây, Minny, thà rằng chính tay ta nuôi cháu còn hơn để cháu đi giúp việc cho con rắn độc ấy.”

“Cô nghĩ mình đang nói chuyện với ai thế, cô Aibileen? Một con khỉ chắc? Nếu cần cháu có thể làm cho cả bọn KKK[2] cũng được. Mà cô thừa biết cháu thà chết chứ không thèm cướp việc của Yule May đâu.”

“Ta xin lỗi, ta lỡ mồm.” Hễ nhắc đến cô Hilly là tôi dễ mất bình tĩnh ghê lắm. “Ta sẽ gọi cho cô Caroline bên Honeysuckle, để xem cô ấy có biết ai không. Ta sẽ gọi cho cả bà Ruth nữa, bà ấy tốt lắm cơ, đến chết thôi. Hồi xưa sáng nào bà ấy cũng dọn dẹp nhà cửa sạch bong, tới mức ta chẳng còn việc gì mà làm ngoài bầu bạn với bà ấy. Chồng bà ấy chết vì bệnh ban đỏ thì phải.”

“Cháu cảm ơn. Nào nào, bà Walter, ăn tí đậu xanh tôi xem nào.” Minny chào rồi gác máy.

Sáng hôm sau, chiếc xe tải chở gỗ màu xanh cũ kỹ lại đến. Tiếng đục tiếng búa đã nổi lên rầm rầm nhưng không thấy ông Leefolt hùng hổ đi quanh nhà nữa. Tôi đoán rằng ông đã biết mình thua keo này trước cả khi nó bắt đầu.

Cô Leefolt ngồi ở bàn bếp, bận áo choàng tắm thêu màu xanh lơ, cô đang dở cuộc điện thoại. Bé Con thì mặt nhoe nhoét mứt đỏ, đang ra sức bấu lấy gối mẹ để mẹ phải nhìn xuống.

“Chào Bé Con,” tôi nói.

“Mẹ! Mẹ!” Nó kêu, rồi cố rướn người leo lên lòng cô Leefolt.

“Không, Mae Mobley.” Cô Leefolt thúc khuỷu tay gạt nó xuống. “Mẹ đang nói chuyện điện thoại. Để mẹ yên.”

“Mẹ, bế,” Mae Mobley dũn dĩn và chìa hai tay ra với mẹ. “Bế Mae Mo đi.”

“Suỵt,” cô Leefolt lầm rầm.

Tôi chạy lại nhấc bổng Bé Con lên thật nhanh và cắp nó ra chỗ bồn rửa, nhưng nó vẫn nghển cổ lên, gào “Mẹ, mẹ,” cố gắng thu hút sự chú ý của mẹ nó.

“Tớ nói y như cậu bảo ấy.” Cô Leefolt gật gù với cái điện thoại. “Sau này chuyển đi, tớ sẽ tăng giá bán nhà lên.”

“Nào nào, Bé Con. Cho tay vào đây này, vục hẳn xuống nước ấy.”

Nhưng Bé Con vùng vẫy rất mạnh. Tôi cố gắng xát xà phòng vào tay nó nhưng nó trằn lên và trườn khỏi tay tôi. Nó chạy ngay đến chỗ mẹ ngồi, ngửa cổ lên và túm lấy dây điện thoại rồi mắm môi mắm lợi giật xuống. Ống nghe điện thoại trượt khỏi tay cô Leefolt rơi độp xuống đất.

“Mae Mobley!” Tôi kêu lên.

Tôi cuống quít chạy lại với nó nhưng cô Leefolt đã đến trước. Môi cô vén lên, hàm răng chìa ra trong một nụ cười rùng rợn. Đoạn cô Leefolt ra sức phát đen đét vào bụng chân trần của Bé Con, tôi nghe mà rủn cả người.

Rồi cô túm lấy tay Mae Mobley mà giật và gằn từng tiếng. “Mày còn động vào cái điện thoại lần nữa thì chớ chết nghe chưa, Mae Mobley!” Cô gào lên. “Aibileen, tôi đã bảo vú bao nhiêu lần là phải giữ nó khi tôi đang nghe điện thoại rồi!”

“Tôi xin lỗi,” tôi nói và bế Mae Mobley lên, cố ôm chặt nó vào lòng, nhưng nó giãy giụa, mặt đỏ gay lên và nó cào cấu tôi.

“Thôi nào, Bé Con, không sao đâu, mọi việc...”

Mae Mobley nhăn nhó với tôi và ngoái cổ lại rồi bốp! Tay nó đập trúng tai tôi đau điếng.

Cô Leefolt chỉ ra cửa, miệng rít lên, “Aibileen, cả hai biến ra ngoài ngay đi.”

Tôi bế nó ra khỏi bếp. Tôi giận cô Leefolt đến run người, giận đến răng cắn dập cả lưỡi. Nếu cô ả ngu độn đó chịu để mắt tới con mình một chút thì đã chẳng đến nông nỗi này! Khi hai bác cháu vào tới phòng Mae Mobley, tôi ngồi xuống chiếc ghế bập bênh. Con bé gục lên vai tôi khóc nức nở và tôi xoa xoa lưng nó, mừng vì nó không nhìn thấy cơn giận bừng bừng trên mặt tôi lúc ấy. Tôi không muốn nó nghĩ là lỗi tại nó.

“Con có sao không, Bé Con?” Tôi thì thầm. Tai tôi vẫn còn đau vì cú đấm của nó. Tôi mừng vì nó đánh tôi chứ không phải mẹ nó, vì tôi không biết mụ đàn bà đó sẽ làm gì với nó nữa. Tôi cúi xuống và nhìn thấy mấy vết ngón tay đỏ tấy còn in hằn trên bụng chân nó.

“Bác đây, cưng à, Aibee đây,” tôi đu đưa và dỗ dành, đu đưa và dỗ dành.

Nhưng Bé Con, nó cứ thút thít mãi không thôi.

Chừng tới bữa trưa, khi tivi phát bộ phim tôi hay xem, bên ngoài nhà để xe lại yên ắng. Mae Mobley ngồi trên lòng tôi và giúp tôi tước xơ quả đậu. Có vẻ nó vẫn bịu xịu vì chuyện hồi sáng. Tôi đồ rằng mình cũng thế, nhưng tôi đã nén nó thật sâu, xuống một nơi mà tôi không còn phải bận tâm đến nữa.

Chúng tôi vào bếp và tôi làm cho nó một chiếc sandwich kẹp xúc xích thái lát. Trên đường xe đi vào nhà, hai người thợ đang ngồi trong xe tải ăn trưa. Tôi mừng vì được yên ổn một mình. Tôi mỉm cười với Bé Con, rồi cho nó một quả dâu, may mà tôi có mặt ở đây khi có chuyện rắc rối với mẹ nó. Tôi không dám nghĩ tiếp những gì sẽ xảy ra nếu không có tôi. Con bé nhét cả quả dâu vào ngậm phồng cả mồm và cười đáp lại. Tôi nghĩ nó cũng cảm thấy thế.

Cô Leefolt không có ở đây nên tôi chợt nghĩ có lẽ nên gọi cho Minny theo số nhà bà Walter, để xem cô đã kiếm được việc mới chưa. Nhưng tôi chưa kịp nhấc máy thì có tiếng gõ cửa sau nhà. Tôi mở ra thì thấy một người thợ đứng đó. Ông ta già lắm rồi. Bộ đồ bảo hộ lao động trùm lên chiếc áo sơ mi cổ trắng.

“Chào chị. Phiền chị cho tôi xin ít nước được không?” Ông ta hỏi. Tôi không nhận ra ông ta. Chắc dân ở mạn phía Nam thị trấn.

“Được chứ,” tôi đáp.

Tôi lấy một chiếc cốc giấy trên chạn xuống. Trên cốc có in chữ chúc mừng sinh nhật xanh đỏ, cái này dùng hồi Mae Mobley lên hai tuổi. Tôi biết cô Leefolt sẽ không muốn tôi cho ông ta dùng cốc thủy tinh của nhà.

Ông ta tu một hơi dài và đưa trả tôi chiếc cốc. Khuôn mặt ông lộ vẻ mệt mỏi rã rời. Dường như đôi mắt ánh lên nét gì đó cô độc.

“Công việc sao rồi bác?” Tôi hỏi.

“Bọn tôi vẫn đang làm,” ông đáp. “Vẫn chưa có nước. Chắc chúng tôi phải lắp một đường ống chạy từ ngoài đường cái vào.”

“Anh chàng kia có cần uống ít nước không?” Tôi hỏi.

“Được vậy thì tốt quá.” Ông ta gật đầu và tôi lại đi lấy nước cho anh bạn ông vào chính cái cốc nom rõ buồn cười đó bằng vòi ở bồn rửa.

Nhưng ông ta chưa đem nước cho bạn ngay.

“Tôi xin lỗi,” ông nói, “nhưng...” Ông đứng đó một lúc, mắt nhìn chằm chằm xuống chân. “Tôi đi giải ở đâu được ạ?”

Ông ngước lên và tôi nhìn ông, trong chừng một phút chúng tôi chỉ nhìn nhau. Ý tôi là, chuyện đó ngồ ngộ sao ấy. Không phải ngộ kiểu nghe xong ai cũng phá ra cười mà là kiểu bạn chỉ nghĩ thầm trong bụng: Hở. Chúng tôi đứng ở đây, tại ngôi nhà có tới hai phòng vệ sinh và một phòng khác đang xây dở, ấy vậy mà vẫn chẳng có chỗ nào để cho người đàn ông này xử lý việc riêng của mình.

“Ờ thì...” tôi chưa bao giờ rơi vào cảnh như thế này. Thằng bé Robert vẫn dọn vườn hai tuần một lần ấy, tôi đoán nó thường đi tiểu trước khi đến đây. Còn người này, ông ấy đã già rồi. Hai bàn tay đã nhăn nheo hết cả. Bảy mươi năm lo nghĩ đã vạch biết bao nhiêu đường ngang dọc lên mặt ông, trông chẳng khác gì cái bản đồ.

“Tôi e là bác phải đi vào mấy bụi cây sau nhà ấy,” tôi nghe tiếng mình nói, nhưng ước sao đó không phải là mình. “Đằng ấy có con chó đấy, nhưng nó không cắn đâu.”

“Vâng,” ông nói. “Cảm ơn chị.”

Tôi nhìn ông chậm chạp quay về cùng cốc nước cho anh bạn trên tay.

Tiếng đập gõ và đào xới lại vang lên đến hết buổi chiều hôm ấy.

Suốt cả ngày hôm sau, họ lại miệt mài đập và đào ở sân trước. Tôi không hỏi cô Leefolt câu nào và cô Leefolt cũng chẳng buồn giải thích lấy một lời, chỉ thỉnh thoảng ngó ra cửa hậu để săm soi xem công việc đến đâu.

Tới ba giờ chiều thì âm thanh ồn ào im hẳn và hai người đàn ông lên xe tải ra về. Cô Leefolt nhìn họ lái xe đi khuất, thở phào một cái, rồi lấy ô tô và đi làm những việc cô vẫn thường làm khi không phải lo lắng về những người da màu lảng vảng quanh nhà.

Một lúc sau, chuông điện thoại reo.

“Cô Leef...”

“Mụ ta rêu rao với khắp cả thị trấn cháu là con ăn cắp! Thế nên cháu mới không kiếm được việc gì! Mụ phù thủy đó đã biến cháu thành Con hầu tội lỗi lắm mồm của quận Hinds rồi!”

“Nào nào, Minny, bình tĩnh đã cháu...“

“Sáng nay trước khi đi làm, cháu qua nhà bà Renfroe bên khu Sycamore và sém bị tống ra khỏi cửa. Bà ấy nói mụ Hilly kể hết chuyện về cháu rồi, bảo là ai cũng biết cháu đã ăn trộm một cái giá nến ở nhà bà Walter!”

Tôi có thể nghe được tay Minny siết chặt lên ống nghe điện thoại, cứ như đang gồng sức để bóp vụn nó ra vậy. Tôi loáng thoáng thấy có tiếng Kindra la hét và tự hỏi sao giờ này Minny đã ở nhà rồi. Bình thường phải tới bốn giờ chiều cô mới về cơ.

“Cháu có làm gì ngoài việc chăm bẵm bà già đó đâu!”

“Minny, ta biết cháu là đứa thật thà. Đến Chúa cũng biết vậy mà.”

Giọng cô nhỏ lại, vo ve như ong trong tổ. “Khi cháu đến nhà bà Walter, mụ Hilly đã ở đấy rồi, mụ ta cố dúi cho cháu hai mươi đô-la và bảo, ‘Cầm lấy đi. Tôi biết chị cần món tiền này đấy,’ suýt nữa thì cháu nhổ vào mặt mụ. Nhưng cháu thèm vào làm thế.” Cô hổn hển nói, “Cháu làm chuyện còn ghê hơn cơ.”

“Cháu làm gì?”

“Không nói đâu. Cháu sẽ không nói với ai về cái bánh đó đâu. Nhưng cháu đã cho mụ thứ mụ đáng phải nhận!” Giọng cô giờ đã biến thành tiếng rền rĩ và tôi cảm thấy một nỗi sợ hãi lạnh lẽo ghê người. Chẳng có trò gì qua nổi mắt cô Hilly đâu. “Cháu không kiếm được việc nào khác nữa rồi, Leroy giết cháu mất...”

Kindra bắt đầu khóc ầm lên. Minny dập máy mà không chào hỏi gì. Tôi chẳng hiểu cô nói gì về cái bánh cả. Nhưng trời thần ơi, với tính tình Minny như thế, ắt đó chẳng phải thứ gì tốt lành đâu.

Tối hôm đó, tôi hái một cây rau sâm đất và một quả cà chua từ vườn của Ida, rồi rán ít thịt muối, quấy thêm nước sốt để chấm bánh quy. Mớ tóc giả của tôi đã được chải lại và tôi đội nó lên đầu, lọn tóc quấn lô màu hồng, tôi cũng vừa xịt cả keo Good Nuff. Cả chiều nay tôi cứ lo đứng lo ngồi vì Minny. Chắc tôi phải đẩy hết chuyện đó ra khỏi đầu nếu muốn chợp mắt được chút đỉnh đêm nay.

Tôi dọn bàn để ăn, rồi bật chiếc đài nhỏ trong bếp lên. Thằng bé Stevie Wonder đang hát bài “Fingertips.” Là người da màu có lẽ chẳng nhằm nhò gì với nó. Nó mới mười hai tuổi, mắt thì mù, thế mà đã có bài hát được phát trên đài rồi. Nghe hết bài, tôi bỏ kênh truyền giáo của Cha Green và dừng ở kênh WBLA. Họ đang chơi nhạc blue kiểu những quán rượu dọc đường thường chơi.

Tôi thích chìm trong thứ âm thanh đượm mùi khói thuốc và rượu mạnh ấy khi trời về đêm. Nó khiến tôi có cảm giác ngôi nhà này đầy chật người. Tôi hầu như nhìn thấy họ, lắc lư nhún nhảy trong gian bếp nhỏ của tôi, buông mình theo tiếng nhạc. Tôi tắt đèn trần đi, giả bộ như chúng tôi đang ngồi trong quán rượu The Raven. Quán kê những chiếc bàn nhỏ xinh có đèn chụp màu đỏ. Đang độ tháng Năm, tháng Sáu, tiết trời ấm áp. Chồng tôi, Clyde, nở nụ cười rạng rỡ phô hàm răng trắng lóa và hỏi, Em yêu, uống chút gì nhé? Và tôi đáp, Một ly Black Mary không đá rồi bật cười với chính mình, ngồi trong căn bếp này mà mơ mộng hão huyền, bởi thứ rượu mạnh nhất tôi từng nếm qua chỉ là Nehi tím mà thôi.

Trên đài, Memphis Minny bắt đầu cất tiếng hát, rằng thịt nạc khó rán cũng như tình yêu chẳng bền. Đôi lúc, tôi chợt nghĩ có lẽ mình nên kiếm một người đàn ông khác, ai đó ở nhà thờ tôi thường đến chẳng hạn. Vấn đề là, so với tình yêu vô bờ tôi dành cho Chúa, đám đàn ông đi nhà thờ sẽ chẳng đời nào hy sinh cho tôi nhiều đến thế. Kiểu đàn ông tôi thích không phải là loại người sẽ còn ở lại sau khi đã tiêu tán hết tiền của của bạn. Tôi đã mắc sai lầm ấy hai chục năm trước đây. Khi lão Clyde chồng tôi bỏ tôi theo con ranh mất nết hư hỏng đằng mạn phố Farish, thấy bảo tên nó là Cocoa thì phải, tôi đã tự nhủ mình không bao giờ nên dây vào những chuyện như thế nữa.

Bên ngoài bỗng có tiếng mèo gào réo, đưa tôi trở lại với căn bếp lạnh lẽo. Tôi tắt đài đi và bật đèn lên, rồi lục tìm cuốn sổ cầu nguyện trong túi xách. Sổ cầu nguyện của tôi chỉ là một quyển vở bìa xanh tôi mua ở cửa hàng Ben Franklin, tôi dùng bút chì để có thể tẩy đi tới khi nào lời cầu nguyện linh ứng thì thôi. Tôi bắt đầu viết những lời cầu nguyện của mình từ hồi còn học trung học. Khi tôi báo với cô giáo dạy lớp Bảy rằng mình sẽ không đến trường nữa vì phải ở nhà phụ việc cho mẹ, cô Ross đã suýt bật khóc.

“Aibileen, con là đứa sáng dạ nhất lớp đấy,” cô bảo. “Còn cách duy nhất giúp con giữ được trí óc sắc bén là đọc và viết hàng ngày.”

Vì thế tôi bắt đầu viết ra những lời cầu nguyện của mình, thay vì chỉ nói mồm. Song kể từ hồi đó, chẳng còn ai khen tôi sáng dạ nữa.

Tôi lật từng trang sổ để xem tối nay phải cầu cho những ai. Đã vài lần trong tuần này, tôi tính có khi nên thêm cô Skeeter vào danh sách của mình, dù cũng không rõ vì lý do gì. Lúc nào cô cũng vui vẻ hòa nhã với tôi mỗi khi tới chơi. Nó khiến tôi thấp thỏm song cũng tò mò không hiểu cô đang định hỏi tôi điều gì khi ở trong bếp nhà cô Leefolt, về việc liệu tôi có muốn thay đổi mọi thứ không. Ấy là chưa kể cô còn hỏi tôi chỗ ở của Constantine, bảo mẫu của cô trước kia. Tôi biết hết chuyện xảy ra giữa Constantine và mẹ cô Skeeter nhưng đời nào tôi dám kể cho cô hay.

Nhưng chỉ hiềm nỗi, nếu tôi bắt đầu cầu nguyện cho cô Skeeter, tôi biết cuộc nói chuyện đó sẽ tiếp diễn trong lần sau tôi gặp cô. Và cả lần sau và sau nữa. Bởi đó là sức mạnh của cầu nguyện. Như điện ấy, nó làm mọi thứ vận động. Còn chuyện cái nhà vệ sinh nữa chứ, đó chẳng phải thứ tôi thực sự muốn bàn đến.

Tôi lướt qua danh sách cầu nguyện một lượt. Mae Mobley của tôi xếp số một, rồi đến Fanny Lou ở nhà thờ đang bị bệnh thấp khớp. Hai em gái Inez và Mable của tôi ở Port Gibson, chúng nó có tới mười tám đứa con lít nhít và sáu đứa đang mắc cúm. Khi danh sách còn thưa, tôi cho thêm cả ông già da trắng rách rưới hôi hám sống phía sau cửa hàng thức ăn gia súc, ông ta bị ngớ ngẩn vì uống nhầm xi đánh giày. Song tối nay danh sách đã khá dài.

Tôi ngồi nhẩm tính xem nên lấy ai để chốt danh sách. Bertrina Bessemer chăng?! Ai cũng biết bao năm nay Bertrina và tôi không thèm nhìn mặt nhau từ khi cô ta gọi tôi là con mọi đen ngu xuẩn vì đã lấy Clyde.

“Minny này,” tôi hỏi hôm Chủ nhật tuần trước, “sao Bertrina lại nhờ ta cầu nguyện cho ả?”

Chúng tôi đang đi bộ về nhà sau một giờ nghe giảng đạo. Minny đáp, “Người ta đồn cô có năng lực đặc biệt, cô cầu nguyện bao giờ cũng linh nghiệm hơn những người khác.”

“Gì cơ?”

“Eudora Green ấy, hồi bị vỡ xương chậu được vào danh sách của cô, mất có một tuần đã đi lại được. Isaiah rơi từ xe tải chở bông xuống đất, tối hôm đấy vào danh sách, sáng hôm sau đã đến xưởng như thường rồi.”

Nghe xong tôi bỗng nghĩ, thảo nào mình chưa bao giờ có cơ hội cầu nguyện cho Treelore. Có lẽ đó là lý do vì sao Chúa gọi nó đi sớm thế. Chắc Ngài chẳng muốn phải đôi co với tôi.

“Snuff Washington,” Minny tiếp, “Lolly Jackson nữa - ối giời, Lolly được vào danh sách của cô mà chỉ hai ngày sau đã bỏ xe lăn đứng bật dậy cứ như vừa được chạm vào Đức Chúa Jesus ấy. Ai ở cái quận Hinds này chả biết chuyện đó.”

“Nhưng có phải nhờ ta đâu,” tôi kêu. “Chỉ là cầu nguyện thôi mà.”

“Còn Bertrina...” Minny bắt đầu cười sằng sặc, “Cô có biết Cocoa, con ranh đã bỏ bùa Clyde không?”

“Hừ. Ta quên thế nào được.”

“Một tuần sau khi Clyde bỏ cô, cháu nghe nói Cocoa thức dậy với cái cửa mình bốc mùi tởm lợm như sò thối. Đến ba tháng sau vẫn không đỡ. Bertrina ấy, bà ta là bạn thân của Cocoa. Bà ta biết lời cầu nguyện của cô rất linh nghiệm.”

Miệng tôi há hốc. Sao bao lâu nay cô ấy chưa từng nói cho tôi hay? “Cháu bảo mọi người nghĩ ta có phép ấy à?”

“Cháu sợ nếu nói ra sẽ làm cô lo. Họ chỉ nghĩ rằng cô có mối liên hệ tốt hơn hết thảy mọi người thôi. Chúng ta đều là những con chiên kính Chúa cả, nhưng cô ấy, lời của cô mới lọt tai Ngài.”

Bình trà sôi sùng sục trên bếp, đưa tôi về với thực tại. Trời thần ơi, tôi đồ rằng mình cứ cho cô Skeeter vào danh sách đi, nhưng vì cớ gì thì tôi cũng chịu. Nó lại nhắc tôi nhớ tới thứ mà tôi chẳng muốn nghĩ đến, rằng cô Leefolt đang xây riêng cho tôi một cái nhà vệ sinh vì nghĩ tôi mang đầy mầm bệnh và vi trùng. Và cô Skeeter đã hỏi liệu tôi có muốn thay đổi mọi thứ hay không, cứ như thay đổi quận Jackson, bang Mississippi này chả khác gì thay một cái bóng đèn cháy ấy.

Tôi đang tước xơ đỗ trong bếp nhà cô Leefolt thì chuông điện thoại reo ầm ĩ. Tôi mong đó là Minny gọi báo đã tìm được việc mới. Tôi đã gọi khắp lượt những người tôi từng giúp việc và ai cũng nói cùng một câu: “Chúng tôi không cần thuê người.” Nhưng thực ra ý họ là: “Chúng tôi không thuê Minny.”

Mặc dù Minny đã kết thúc ngày công cuối cùng từ cách đây ba hôm, song tối qua bà Walter đã thậm thụt gọi cho Minny, nhắn cô hôm nay ghé chơi vì nhà cửa giờ quạnh quẽ quá, cũng bởi cô Hilly đã cho người dọn gần hết đồ đạc đi rồi mà. Tôi vẫn không biết chuyện gì đã xảy ra giữa Minny và cô Hilly. Tôi đồ rằng mình cũng không thực lòng muốn biết.

“Nhà Leefolt đây.”

“Ừm, chào chị. Tôi là...” Người phụ nữ ngừng lời, rồi dọn giọng. “Xin chào. Chị làm ơn cho tôi gặp Elizabeth Leer-folt được không?”

“Cô Leefolt không có ở nhà. Cô có nhắn lại gì không?”

“Ô,” người phụ nữ thốt lên, giọng có vẻ chưng hửng.

“Xin hỏi ai đang gọi đấy ạ?”

“Tôi là... Celia Foote. Chồng tôi cho tôi số điện thoại ở đây chứ tôi không quen Elizabeth, nhưng... ờ, anh ấy nói cô Leefolt thông thạo mọi việc liên quan đến Ngày hội Thiện nguyện vì trẻ em và Hội phụ nữ.” Tôi đã nghe cái tên này rồi, nhưng ở đâu thì chịu. Tiếng người phụ nữ này nói nghe như bọn con gái nhà quê chân lấm tay bùn ở mấy vùng nông thôn hẻo lánh ấy. Được cái giọng cô rất êm ái, cao nữa. Dầu vậy âm điệu chẳng giống các bà các cô ở vùng này tí nào.

“Tôi sẽ nhắn cô ấy như thế,” tôi nói. “Số điện thoại nhà cô?”

“Tôi cũng mới chuyển đến và, ờ, thật ra không phải thế, tôi sống ở đây cũng đã khá lâu, trời, phải được một năm rồi. Nhưng tôi chẳng quen ai cả. Tôi... tôi không hay ra ngoài lắm.”

Cô lại dặng hắng và tôi ngạc nhiên không hiểu cô phân bua với tôi làm gì. Tôi chỉ là người hầu kẻ ở, nói chuyện với tôi đâu thể giúp cô có thêm bè bạn.

“Tôi nghĩ có khi tôi có thể làm gì đó giúp cho Ngày hội Thiện nguyện vì trẻ em ngay tại nhà,” cô nói.

Lúc này tôi bỗng nhớ ra. Đây chính là người mà cô Leefolt và cô Hilly vẫn ra sức dè bỉu chỉ vì đã lấy anh bạn trai cũ của cô Hilly.

“Tôi sẽ nhắn lại cho cô Leefolt. Cô vừa nói số nhà cô là bao nhiêu ấy nhỉ?”

“Ừm, nhưng tôi đang vội đi chợ. Ô, có khi tôi nên ngồi nhà đợi vậy.”

“Nếu cô Leefolt gọi mà không gặp được cô, thế nào cũng nhắn qua người giúp việc mà.”

“Tôi có ai giúp việc đâu. Thực ra, tôi đang tính hỏi cô Leefolt cả chuyện đó nữa, không rõ cô ấy có biết người nào tốt không.”

“Cô đang tìm người giúp việc?”

“Tôi đang bấn quá, chẳng biết có kiếm được ai chịu sang tận bên quận Madison này không.”

Ái chà, sao khéo thế. “Tôi biết một người tốt lắm. Cô ấy nấu ăn ngon nổi tiếng, chăm trẻ con cũng khéo nữa. Cô ấy có cả xe riêng để tự tới nhà cô đấy.”

“Ô, ừm... tôi vẫn muốn hỏi ý kiến Elizabeth cơ. Tôi đã đọc cho chị số điện thoại nhà tôi chưa nhỉ?”

“Chưa, thưa cô,” tôi thở dài. “Cô đọc đi.” Đời nào cô Leefolt chịu tiến cử Minny, nhất là sau những chuyện cô Hilly đã thêu dệt như thế.

Cô Celia đọc, “Bà Johnny Foote, Emerson hai-sáu-không-sáu-không-chín.”

Tôi cố vớt vát, “Còn tên cô giúp việc là Minny, số của cô ấy là Lakewood tám-bốn-bốn-ba-hai. Cô ghi được chưa?”

Bé Con túm gấu váy của tôi giật khẽ, kêu “Bụng đau í,” và lấy tay xoa xoa bụng.

Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu, tôi vội nói, “Gượm đã, sao vậy thưa cô Leefolt? À vâng, để tôi bảo cô ấy.” Tôi đưa điện thoại lên miệng và nói, “Cô Celia, cô Leefolt mới vào nhà, nói là đang không được khỏe, nhưng bảo cô cứ gọi cho Minny đi. Cô ấy còn nói sẽ gọi lại cho cô ngay nếu cần giúp gì cho Ngày hội Thiện nguyện.”

“Ôi! Chị nói giúp là tôi cảm ơn nhé. Mong là chị ấy sẽ chóng khỏe và cứ gọi cho tôi bất cứ khi nào nhé.”

“Nhớ là Minny Jackson, Lakewood tám-bốn-bốn-ba-hai cô nhé. Đợi đã, sao ạ?” Tôi thò tay nhón một cái bánh quy rồi đưa cho Mae Mobley, trong lòng dội lên cảm giác phấn khích vì sự ranh mãnh trong con người mình. Tôi đang nói dối mà chẳng mảy may động tâm.

Tôi thẽ thọt bảo cô Celia Foote, “Cô Leefolt dặn cô đừng nói với ai là chính cô ấy đã giới thiệu Minny vì các bạn của cô ấy đều muốn thuê Minny, nếu biết cô ấy giấm Minny cho người khác, họ sẽ giận lắm đấy.”

“Tôi hứa không hé miệng nếu cô ấy cũng đừng làm lộ bí mật của tôi. Tôi không muốn chồng tôi biết tôi đang tìm người giúp việc.”

Chà chà, nếu như thế còn chưa phải là hoàn hảo thì tôi chẳng còn biết thế nào mới là hoàn hảo nữa.

Ngay khi hai bên dập máy, tôi hối hả quay số nhà Minny nhanh hết mức có thể. Nhưng tôi chưa kịp trở tay thì cô Leefolt đã đẩy cửa bước vào.

Tình hình gay go đây. Tôi cho cô Celia số điện thoại nhà Minny, nhưng hôm nay Minny lại đi làm vì bà Walter đang buồn. Thế nên nếu cô Celia gọi, Leroy sẽ cho số nhà bà Walter, anh ta vốn đần mà. Nếu bà Walter nghe điện thoại khi cô Celia gọi đến thì mọi việc sẽ vỡ lở hết. Bà Walter sẽ bô bô với cô ấy tất cả những gì cô Hilly đã đi rêu rao khắp nơi. Tôi phải báo cho Minny hoặc Leroy trước khi quá muộn mới được.

Cô Leefolt trở vào phòng ngủ và, như tôi đã lường trước, việc đầu tiên cô làm là ôm lấy cái điện thoại. Đầu tiên cô ta gọi cho cô Hilly. Rồi đến thợ làm đầu. Rồi gọi đến cửa hàng để hỏi một món quà cưới, và nói, nói, nói, liên hồi kỳ trận. Vừa gác máy, cô đã bước ra ngoài và hỏi tuần này họ sẽ được ăn gì cho bữa tối. Tôi rút cuốn sổ ra và điểm qua danh sách một lượt. Không, cô chẳng muốn dùng món cốt lết. Cô đang cố ép chồng giảm bớt mấy thức ấy đi. Cô muốn dùng thịt bò rán và salad rau củ. Và tôi thử tính xem mấy cái bánh trứng đường kia chứa bao nhiêu calo? Và không được cho Mae Mobley ăn bánh quy nữa vì nó béo quá rồi và... và... và...

Trời thần ơi. Một cô ả chẳng bao giờ nói gì tử tế với tôi ngoài sai làm cái này đi và dùng cái phòng vệ sinh kia đi, sao bỗng dưng hôm nay lại nói chuyện cứ như tôi là bạn thân thiết nhất đời của mình vậy. Mae Mobley đang nhảy nhót rối rít, cố bắt mẹ để ý đến mình. Và đúng lúc cô Leefolt chuẩn bị cúi xuống nhìn nó, thì bụp! Cô Leefolt vội vã chạy ra cửa vì quên mất còn mấy việc vặt chưa kịp làm, tới lúc đó là đã mất toi một tiếng đồng hồ quý giá của tôi rồi.

Tôi cuống quít huy động tất cả các ngón tay để nhấn số cho kịp.

“Minny! Ta tìm được một việc rồi đấy. Nhưng cháu phải nghe điện thoại...”

“Cô ấy gọi rồi.” Giọng Minny lạnh tanh. “Leroy cho cô ấy số.”

“Và bà Walter đã nghe máy,” tôi thốt lên.

“Một bà già điếc lòi như thế mà bỗng dưng hôm nay lại cứ như được Chúa ban phước ấy, bà ta đã nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Cháu còn mải ra ra vào vào bếp, có để ý gì đâu, nhưng sau cháu nghe nhắc đến tên mình. Rồi Leroy gọi sang, lúc đấy cháu mới biết.” Minny nói như đã kiệt sức, mà cô là kiểu người có bao giờ biết đến mệt mỏi là gì.

“Ừm. Có khi bà Walter không đả động gì đến những chuyện bịa đặt cô Hilly đã nói thì sao. Biết đâu đấy.” Song đến tôi cũng chẳng ngốc tới mức tin vào chuyện này.

“Kể cả thế thì bà Walter cũng đã biết hết chuyện cháu trả đũa cô Hilly rồi. Cô không biết việc Kinh tởm Khủng khiếp cháu đã làm đâu. Cháu cũng chẳng muốn cô biết. Cháu dám chắc bà Walter đã bảo cô kia cháu là đồ quỷ cái rồi.” Giọng Minny rời rạc, nghe như máy thu âm bị rè.

“Ta xin lỗi. Giá mà ta gọi cho cháu sớm hơn, có lẽ cháu đã kịp nghe cuộc điện thoại đó rồi.”

“Cô đã làm hết sức mình rồi. Chẳng ai giúp được cháu nữa đâu.”

“Ta sẽ cầu nguyện cho cháu.”

“Cháu cảm ơn,” Minny nói, rồi giọng cô vỡ ra, “Cháu cảm ơn cô vì đã cố giúp cháu.”

Chúng tôi gác máy và tôi đi lau dọn nhà cửa. Âm thanh giọng nói của Minny khiến tôi rùng mình.

Cô luôn là người phụ nữ mạnh mẽ, luôn chiến đấu. Sau khi thằng Treelore mất, cô mang thức ăn đến cho tôi đều đặn mỗi tối trong suốt ba tháng ròng. Và ngày nào cô cũng nói, “Đừng nhé, cô không được bỏ cháu bơ vơ trên cõi đời khốn khổ này đấy,” nhưng tôi phải thú thật là lúc ấy tôi đã quyết lắm rồi.

Tôi đã thắt xong nút dây treo cổ khi Minny tìm thấy nó. Sợi thừng là của thằng Treelore, hồi xưa nó dùng trong bài nghiên cứu khoa học về ròng rọc và vòng đai. Tôi không rõ mình có dùng đến nó không, tôi biết đó là một tội ác chống lại Chúa, nhưng đầu óc tôi không còn tỉnh táo nữa rồi. Song Minny chẳng hỏi han câu nào hết, cô chỉ lôi sợi dây ra khỏi gậm giường, cho vào thùng rác và bê ra ngoài đường. Khi quay trở lại, cô xoa tay như thể vừa dọn dẹp nhà cửa xong như thường lệ. Minny vốn cứng rắn nhưng giờ đây cô có vẻ suy sụp lắm. Tôi bỗng nghĩ có khi tối nay nên kiểm tra gầm giường nhà cô.

Tôi đặt xuống đất cái xô đầy những nước rửa Sunshine mà các bà các cô trên tivi vẫn cười rạng rỡ khi nói về nó. Tôi phải ngồi nghỉ một lúc mới được. Mae Mobley ôm bụng chạy tới, nhõng nhẽo, “Bác làm nó hết đau đi.”

Con bé áp mặt lên chân tôi. Tôi vuốt ve mái tóc của nó cho tới khi nó ầm ừ khe khẽ như một con mèo, cảm nhận tình yêu thương ấm áp từ bàn tay tôi. Và tôi nghĩ về tất cả bạn bè của mình, những gì họ đã làm cho tôi. Những gì họ vẫn làm mỗi ngày cho những phụ nữ da trắng họ đang giúp việc. Nỗi đau trong giọng nói của Minny. Treelore nằm dưới ba tấc đất lạnh lẽo. Tôi nhìn xuống Bé Con, tận đáy lòng mình, tôi biết tôi không thể ngăn nó trở thành một người như mẹ nó. Và tất cả những suy nghĩ rối rắm ấy cuộn lên trong tôi. Tôi nhắm mắt lại và lẩm nhẩm đọc những lời cầu nguyện trước Chúa. Nhưng nó không giúp tôi cảm thấy thanh thản hơn.

Xin Chúa giúp tôi, tôi phải làm gì đó mới được.

Bé con ôm cứng lấy chân tôi cả buổi chiều hôm đó đến nỗi tôi suýt ngã mấy lần. Tôi cũng chẳng lấy thế làm phiền. Từ sáng tới giờ cô Leefolt chưa nói câu nào với tôi hay Mae Mobley. Cô còn bận bịu với cái máy khâu trong phòng ngủ. Cô đang may vải phủ để cố che đi thứ gì đó cô không thấy ưa mắt trong căn nhà này.

Một lúc sau tôi và Mae Mobley kéo nhau vào phòng khách như thường lệ. Tôi còn cả đống áo sơ mi của ông Leefolt phải ủi, ủi xong tôi sẽ làm món thịt om. Tôi đã cọ phòng vệ sinh, thay ga giường, hút bụi thảm xong xuôi. Tôi cố gắng kết thúc công việc sớm để tôi và Bé Con còn có chút thời gian chơi với nhau.

Cô Leefolt bước vào và nhìn tôi ủi quần áo. Cô làm như vậy mấy lần liền. Cau mày và nhìn ngó. Rồi cô mỉm cười rất nhanh khi tôi đưa mắt nhìn lên. Cô lấy tay vuốt ngược mái tóc, cố đánh cho bồng lên.

“Aibileen, tôi có một bất ngờ dành cho vú đây.”

Giờ cô nở nụ cười hết cỡ. Chỉ có môi cười mà thôi, chẳng hở tí răng nào, kiểu cười đó bạn phải nhìn mới biết. “Ông Leefolt và tôi đã quyết định xây riêng cho vú một phòng vệ sinh.” Cô vỗ tay, rồi hất hàm về phía tôi. “Ở ngay ngoài gara kia kìa.”

“Vâng, thưa cô.” Cô ta nghĩ suốt thời gian qua tôi ở đâu kia chứ?

“Thế nên, từ nay trở đi, thay vì phải dùng phòng vệ sinh cho khách, vú có thể dùng phòng của riêng mình ngay ngoài kia. Tuyệt chứ hả?”

“Vâng, thưa cô.” Tôi vẫn cắm cúi ủi đồ. Tivi đang bật và chương trình ưa thích của tôi đã bắt đầu lên hình. Dẫu vậy cô ta cứ đứng nguyên ở đó mà nhìn tôi chòng chọc.

“Vậy vú sẽ dùng phòng vệ sinh ngoài gara, rõ chưa?”

Tôi không nhìn cô ta. Chẳng phải tôi đang giở quẻ hay gì, nhưng cô ta nói thế là đủ lắm rồi.

“Vú không muốn lấy ít khăn giấy mà ra ngoài kia dùng thử à?”

“Cô Leefolt, tôi chưa cần phải đi ngay lúc này mà.”

Mae Mobley đứng ở cũi chỉ tay về phía tôi, “Cho Mae Mo nước quả?”

“Để bác lấy nước quả cho con,” tôi nói.

“Ô.” Cô Leefolt liếm môi mấy lần. “Nhưng khi nào phải đi, vú nhớ ra sau nhà và dùng phòng đó nhé, ý tôi là... chỉ phòng đó thôi, hiểu chưa?”

Cô Leefolt trang điểm rất dày, những lớp bự phấn tựa như kem lỏng. Lớp trang điểm vàng vàng ấy tràn qua cả môi cô, nhìn qua người ta phải tưởng cô không có mồm. Tôi bèn nói điều mà tôi biết cô đang chờ nghe: “Từ nay tôi sẽ chỉ dùng nhà vệ sinh cho người da màu thôi. Rồi tôi sẽ dùng Clorox tẩy lại hai nhà vệ sinh kia thật kỹ.”

“À, cũng chẳng vội gì. Trong hôm nay vú làm lúc nào cũng được.”

Song với cái cách đứng mân mê chiếc nhẫn cưới trên tay, cô thực sự muốn bảo tôi dậy mà đi làm ngay đi.

Tôi chậm chạp đặt chiếc bàn ủi xuống, cảm thấy cái hạt giống đắng cay lớn dần trong ngực mình, cái hạt đã gieo xuống sau khi thằng Treelore mất. Mặt tôi nóng bừng, lưỡi giật giật. Tôi không biết phải nói gì với cô ta. Tất cả những gì tôi biết, là tôi đang không nói năng gì. Và tôi biết cô ta cũng không nói những gì muốn nói ra và thật kỳ dị, vì ở đây chẳng ai nói với ai câu nào, vậy mà chúng tôi vẫn trao đổi xong một cuộc đối thoại.

 



[1] Chú thỏ Br’er là nhân vật chính trong những câu chuyện kể của bác Remus vẫn được lưu truyền rộng rãi ở miền Nam nước Mỹ. Thỏ Br’er là nhân vật tài trí, thông minh, thường dùng trí khôn của mình để chiến thắng những kẻ quyền thế và độc ác. Những mẩu chuyện xoay quanh chú thỏ này xuất hiện trong cả văn hóa Châu Phi và văn hóa bản địa Mỹ. Sau này hãng Walt Disney đã lấy nguyên mẫu thỏ Br’er để xây dựng bộ phim hoạt hình Song of the South.

 

[2] KKK: viết tắt của Ku Klux Klan, hay còn gọi là Đảng 3K, là tên của nhiều hội kín lớn xưa nay ở Hoa Kỳ với chủ trương đề cao sự ưu việt của chủng người da trắng, chủ nghĩa bài Do thái, bài Công giáo, chống cộng sản, chống đồng tính luyến ái và chủ nghĩa địa phương. Các hội kín này thường sử dụng các hoạt động mang tính hăm dọa chẳng hạn như đốt thập giá, treo cổ... để đe dọa người Mỹ gốc Phi và những nhóm người khác.

 

(Còn tiếp)
Trích trong quyển NGƯỜI GIÚP VIỆC 
- Tác giả: Kathryn Stockett - Người dịch: Kim Ngọc

Other News