Nourishing soul, Broadening mind

Góp Ý

Chữa lành - Kỳ 1
Update Date: 12/21/2009

Ruby là con út trong một gia đình Bronstein gắn bó, một cô bé nhạy cảm, ưa quan sát, ngưỡng mộ các anh trai và thần tượng người cha dịu dàng mà cứng rắn, người đã sống sót sau họa diệt chủng và dĩ vãng đó cùng với ý thức sâu sắc của ông về đạo đức con người tạo thành cốt lõi cho cả gia đình. Nhưng năm Ruby lên mười, người anh cả nhập viện để rồi sau đó trở về như một người xa lạ không ai nhận ra. Đó chỉ là khởi đầu của một chuỗi bi kịch khó tin đã rơi xuống nhà Bronstein khiến cho Ruby rất đỗi ưu phiền và lung lạc niềm tin. Cuốn tiểu thuyết chạm sâu trực diện không một chút phòng thủ này theo chân Ruby qua quãng đời niên thiếu được đóng dấu bởi mất mát đau lòng, khi cái xôn xao, cái mập mờ, cái khát khao của tuổi mới lớn được đẩy lên cao bởi những biến cố thảm họa đi kèm. Trong đống đổ vỡ của gia đình, Ruby tìm an ủi nơi bạn bè và hò hẹn, ở những điều bình thường như trại hè và tiệc cuối cấp. Nhưng niềm đau và nỗi hờn giận phủ bóng lên những kinh nghiệm này, ngăn cách cô với những người mình yêu, cho tới ngày cô lựa chọn hòa giải giữa cái mà cô đã mất với kẻ mà cô đã trở thành. Tiểu thuyết đầu tay sâu sắc của Nellie Hermann là một câu chuyện chân thật và cảm động về sức phản kháng tiềm tàng và tình yêu thương đã gắn bó nên một gia đình.

Vào cái mùa đông tìm thấy một khẩu súng, Ruby Bronstein mới chín tuổi. Đó là một ngày thứ Ba của tháng Mười Hai; cô bé đang cùng gia đình nghỉ mát ở bang Maine.

Sáng hôm đó, sau bữa điểm tâm, Ruby đứng bên cửa sổ hiên nhà bên hông, quan sát các anh trai. Bọn họ ở xa tít tắp ngoài bãi biển, đang đi qua khoảng không bát ngát trước nhà và rồi đột nhiên dừng lại: một bầy gì đó đen đen, chợt bò đi, chợt đứng lại, hình như là những con chuột chũi di động trên bề mặt phẳng lì của con nước ròng.

Luôn luôn lạ lẫm, cô bé nghĩ, khi quan sát người ta qua lại bên ngoài trong khi mình đứng bên trong. Một khung cửa sổ giá băng, mình thấy những mặt người thu lu trong cổ áo, tay bỏ trong túi, và mình hiểu ngay, mình tin liền, và đôi khi, mình quên mất sự ấm áp của chính mình và hiện diện nhiều hơn trong cái cảnh mình đang xem, đến mức quên che một phần thân thể, làm cho da khô cứng phát ghê. Cô bé nhìn ba người anh trai của mình bước đi: cô thấy họ cười, Aaron ngả đầu về phía sau, và với một bàn tay đeo găng, duỗi ra đấm vào tay Nathan; cô thấy Abe đang chỉ tay về phía cửa con sông nhỏ, nơi ít ỏi những con thuyền thả neo như những chấm trắng trên nền biển đen. Mặc dù họ ở rất xa, cô bé có cảm giác như đang nhìn mấy người anh từ rất gần.

Phía sau lưng, trong bếp, mẹ cô đang rửa bát. “Rube, sao con không đi chơi với mấy anh?”

Tiếng mẹ gọi làm Ruby nhận ra cô đã quan sát các anh chăm chú dường nào. Tiếng nói của bà lia qua không khí, như cái thòng lọng, lôi Ruby ra khỏi bãi biển. Cô đang ấm áp; cô đang đứng ngay cửa sổ.

Mà cô quả thực muốn đi chơi với các anh, rất muốn, mặc dù trước đó đã cam chịu ở ngoài lề. Khi các anh sửa soạn đi chơi biển, khi Aaron nói, “Tụi mình ra ngoài chơi đi,” và ba người đã bước vô tủ quần áo ngoài hiên, sục sạo dưới giá treo đồ kiếm nón và ủng cao su, thì Ruby cứ ngồi lì ở tại bàn giả vờ đọc cuốn Chiếc cầu bắc qua Terabithia.

Nhưng giờ đây, với một động tác dứt khoát, cô quay người vào trong, bỏ lại khung cửa sổ và bước qua mái hiên, bước qua mẹ mình trong nhà bếp, bước qua cha mình, đang đọc một cuốn sách Do Thái cổ trong phòng khách – con chó của họ, Wally, nằm vụng về trên đùi ông – bước lên cầu thang vô buồng ngủ để thay đồ. Trong cái tủ quần áo ngoài mái hiên cô xỏ chân vào một đôi ủng cao su hơi quá cỡ; thộp lấy chiếc áo khoác, một cái nón, và găng tay; rồi rời nhà qua cửa sau. Cô bước vào trong rét mướt như đi trong bóng tối của ngôi nhà ban đêm, khi thức giấc đi tè, cô phải tự dò đường, quờ quạng, cho tới khi trở lại phòng ngủ, hai tay đưa ra sờ soạng các bức tường.

Các anh của Ruby luôn có nhau khi họ ở Maine, vì họ đâu có chỗ nào đi chơi riêng, đâu có bạn bè để xé lẻ, cũng đâu có phương tiện gì để thể hiện ba thế giới vốn riêng biệt. Về nhà mình ở Massachusetts họ là những chàng trai tách biệt hẳn. Abe, mười chín tuổi và là sinh viên năm nhất, cao ráo và nghiêm nghị, với hàng lông mày rậm như muốn chạm tới sống mũi. Anh ấy là kiểu người “đầu óc”, như cha mẹ họ vẫn nói, một nghệ sĩ violin từ năm lên sáu, được lòng hết thảy thầy cô, và đụng vô món gì là tuyệt kỹ món đó, không chút khó khăn. Lúc trước anh ấy còn mắc bệnh đỏm dáng, một ngày tắm nhiều lần (Nathan bèn đặt cho biệt danh là Ngài Sạch Sẽ), nhưng trong mấy năm vừa qua anh ấy tự nhiên nổi mụn phát kinh và tóc lại để dài. Aaron thì mảnh khảnh, già trước tuổi và người đầy tàn nhang; trong ba người thì anh hiếu động hơn cả; mới có mười bảy tuổi đầu đã vô phòng cấp cứu bốn lần để khâu vá vết thương, một lần nhờ tháo lưỡi câu ra khỏi dái tai. Nathan mười bốn tuổi, thân hình đậm chắc và mái tóc xoăn vàng. Anh ấy chơi cello và guitar, yêu âm nhạc, hoàn toàn không quan tâm đến việc học. Lúc nào cũng điềm đạm, ít khi giận dữ hay căng thẳng, và rất biết cách gây cười: bằng chữ nghĩa, bằng nét mặt, bằng điệu bộ. Anh ấy đặt biệt danh cho mọi người trong nhà và là người Ruby thấy gần gũi nhất; hai anh lớn hay ho thiệt đó nhưng giống như những vì sao xa, còn Nathan như cái ống nhòm mà cô có thể cầm nắm để quan sát dải ngân hà gia đình.

Lúc ở nhà thì còn đỡ, nhưng khi đến Maine, sự chia cách giữa Ruby và các anh mình lộ rõ ra. Các chàng trai kết thành một khối như thể họ không phải là ba ngôi sao, mà là một hành tinh, và khi Ruby nhập bọn, cô giống như một vệ tinh quay trong trường trọng lực của họ. Cô chẳng bao giờ hòa nhập như cái cách bọn họ tuy ba mà một – cô là con gái, là em út, là món đồ chơi để họ giải trí (cách đây vài năm đó là trò “Bánh cuốn”, họ quấn một tấm mền dày quanh người cô rồi lăn xuống cầu thang). Nhưng ở bên cạnh họ riết đâm ghiền, cho dù cái giá phải trả (nước mắt, đỏ da vì nắng, trầy xước); ở bên cạnh họ như thuộc về một tập thể bất khả chiến bại.

Dù sao, có các anh của Ruby thì mới có cô, như cái cách cô vẫn là. Họ là lý do tại sao cô rượt đuổi đám con trai trong giờ chơi, tóc xõa điên dại trong gió bụi sân trường trong khi những đứa con gái khác đứng nhìn; họ là lý do tại sao cô thích rock của Grateful Dead hơn là pop của New Kids on the Block. Họ là lý do tại sao cô thích chơi video game, và bóng rổ, và chơi violin, vì Abe từng chơi trước mặt cô; họ là lý do tại sao bạn thân nhất của cô, Oscar, là một thằng con trai, và tại sao cô chưa từng si mê búp bê Cabbage Patch Kids.

Bước ra ngoài trên cầu thang gỗ, cô nhìn quanh. Các anh cô trông có vẻ xa xôi hơn là lúc nãy khi cô nhìn họ từ trong nhà. Ngôi nhà kế bên, nhà nhỏ, đóng im lìm; những khung cửa sổ bụi bám khô nứt, bên dưới một lớp băng tuyết. Các rèm cửa kéo hết lại.

Cha mẹ Ruby cho thuê căn nhà nhỏ hơn cho hai mẹ con nhà Kanes, nhưng ít khi nhà Bronsteins nhìn thấy họ. Một đôi lần, Ruby và Nathan thử nhìn lén qua rèm cửa: hai đứa bò lê xung quanh nhà Kanes, mặc cho cỏ chích dưới da, trườn theo bờ tường đến bệ cửa sổ. Những phi vụ này luôn kết thúc trong những tràng cười ngặt nghẽo, hay là Nathan sẽ kêu “Chạy mau!” bằng giọng khàn đục, hai đứa chạy bán sống bán chết qua trảng cỏ để về nhà an toàn. Ruby tưởng tượng giờ này biết đâu có ai đó nhìn lén mình, không chừng mấy cái rèm kia có động đậy, một ánh mắt hay một bàn tay ai đó. Cô chẳng thấy gì, nhưng vẫn đưa tay lên trán chào theo kiểu mà bạn của Abe là Dan, lính hải quân, từng dạy cho cô.

Phía trước Ruby, trên thảm cỏ nhà Kanes, là một chiếc xuồng gỗ, ngay chỗ bãi cát bắt đầu thoai thoải dốc về phía biển. Chiếc xuồng trông lạc lõng làm sao, cô nghĩ, nó nằm đó trên sương giá mùa đông, như đến từ hành tinh nào khác. Cô hình dung, trong thoáng chốc, chiếc xuồng từ trên trời rơi xuống – cái rầm – nhưng vẫn còn nguyên trên cỏ. Trái đất im lìm đến mức khó có thể tưởng tượng ai đó bị phiền nhiễu bởi một thứ gì, xuồng hay bè, từ trên trời rơi xuống.

l   l   l

Ruby ngập ngừng bước xuống những bậc thang gỗ – đôi ủng mới vướng chân làm sao – và băng ngang thảm cỏ ra bãi cát. Chỗ này phải bước thật cẩn thận; ở rìa thảm cỏ là cạm bẫy, tưởng như chắc chắn mà đâu phải vậy, chỉ toàn những mô đất nhô ra trên vũng bùn viền theo bãi cát. Cô bước từ thảm cỏ lên trên con dốc đá nho nhỏ, nơi bãi biển bắt đầu, quyết không dẫm vào những tảng đá trơn trợt, và nhấc chiếc ủng lên chăm chú cô rời bỏ bãi đá đi vào phẳng lặng con nước ròng, thử lớp bùn cát như là thử nhiệt độ nước hồ bơi.

Mảnh đất nhà Bronsteins tọa lạc là đất riêng; ngôi nhà láng giềng duy nhất trong tầm mắt ở tít tắp bên kia vũng nước, cách xa cũng phải hai trăm thước. Phía trước nhà có một cửa sông nho nhỏ, trông như chiếc hồ có hai đầu, một đầu thông ra biển và vịnh – mùa nào cũng có tàu bè neo đậu để nhìn ngắm – và đầu kia vòng qua chỗ McKhekan và Hutches, một công ty chế biến gỗ, rồi đi tiếp tới một khu vực lạ lẫm nơi dòng nước chui qua cầu đổ vào đầm lầy. Bãi biển phía trước xưởng gỗ là nơi họ từng thấy một con sứa khổng lồ, mà các anh của Ruby bảo cô lấy một khúc cây chọc vô xem sao. Chọc thì chọc, cô đâu phải là gan sứa đâu mà không dám, nhưng khi cô chọc cái cây vào con sứa, không có chuyện gì xảy ra cả.

Vùng biển mà mảnh đất trông ra khá rộng, và khi con nước ròng, cửa sông cạn nhách, mép nước lùi xa, rất xa, để lộ lớp bùn cát bên dưới – những tảng đá ngầm, những hụp và hố, những hóc và hiểm. Đại dương rút nước như bồn tắm và trơ lòng ra đó, nào rong nào rêu, nào ốc nào hến, bao nhiêu là sinh vật, phơi bày những chuyển động tinh tế và sự sống bên dưới làn da, riêng tư là đó, gọi mời là đó. Ruby vẫn nghĩ, khi họ quậy tưng lên trong đám bùn lầy của con nước ròng, có khác nào xâm phạm vào chỗ riêng tư của đại dương; cô nghĩ đến sự thô bạo khi ủng của họ nhấn xuống bùn như thọc sâu vào những vết thương, và khi họ nhấc ủng lên, khi họ đôi khi cúi xuống nắm lấy ủng rồi mới nhấc lên cho khỏi tuột chân, Ruby cảm nhận nó như một sự bạo hành, một giằng co giữa bùn cát với con người, và con người luôn chiến thắng. Họ nhấc chân lên và lớp bùn kêu ồn ột, nó cố níu lấy nhưng rồi phải buông ra, rồi họ lại thọc chân vào nó.

Chính theo cách này mà Ruby bước tới, băng qua vùng biển bằng tới chỗ mấy người anh, mà lúc này đã tách nhóm, mỗi người một phương. Thu lu trong cổ áo, tay đút túi, cô bước từng bước tập trung. Lớp bùn lúc này đã thôi dính, chắc tại trời quá lạnh. Cô tự hỏi sao nước chưa đóng băng nhỉ; cô nghĩ nhiệt độ lúc này hẳn đã xuống dưới điểm đóng băng. Có phải tại vì ở đây nhiều nước quá, hay tại vì chứa muối? Liệu nước biển có đóng băng không? Cô nghĩ mình phải hỏi ai đó: chắc Abe biết câu trả lời.

Các anh trai đang xoay lưng về phía cô, nhìn xuống nước, Abe và Aaron trong áo choàng đen thẫm, Nathan trong màu xanh quân ngũ, mà cô biết anh ấy đã tự rạch hai đường, sau đó khâu lại. Đột nhiên, đang nhìn các anh, cô thấy mình bay lên, như thể trong phút chốc hóa thành con chim lớn, chao lượn qua không gian, nhìn xuống các anh trai và chính bản thân cô. Bé bỏng làm sao là cô, đứng đó, thu mình trong áo choàng đỏ thùng thình! Trong nháy mắt cô thấy cái cửa sông tí xíu, thấy nước đổ vào đại dương ở đầu bên kia, cô sà xuống đại dương trải dài, dài ra miết, nơi đó có cá voi, có hải đảo, có những con tàu chìm không ai nhìn thấy, ngay cả đại dương còn không hay biết, mà những thứ này có là gì đâu, không là cái móng tay trên thân thể đại dương. Rồi cô nhập hồn trở lại, ở nguyên đó, trong cái vũng bé xíu trước nhà, sau lưng mấy người anh, mấy người anh cũng bé xíu nốt. Trong tích tắc cô thấy chóng mặt, nhưng nó qua liền.

Ngay dưới chân, ngập trong bùn cát, cô thấy một xác cua còn nguyên, tám cẳng hai càng, nhưng cô không buồn nhặt lên. Rồi cô nghe tiếng Abe trong gió: “Rube đó hả?”

Cô ngước lên nhìn anh. Gương mặt anh ấy đóng khung bởi chiếc nón và cái cổ áo dựng lên, phec mơ tuya kín mít. Aaron và Nathan ngóc lên nhìn, cứng ngắc như xác ướp, sau một hồi mới thấy cô em, và cô vẫy tay, nhu mì sang một bên. Sự có mặt của cô không làm họ xôn xao. Abe vẫy tay chào lại.

Chính cái lúc Ruby sắp sửa bước nốt khoảng cách còn lại giữa cô và các anh trai, mà lúc này, cô dám chắc, đã bắt đầu chán ngán và tính đường quay trở vô, chính ngay lúc đó cô nhìn thấy cái gì đó nhú lên từ dưới đất: cái gì đó nho nhỏ tròn tròn, cái gì đó nâu xỉn tương phản với màu bùn xám. Cô cúi xuống nhìn kỹ hơn; gì thì gì, nó cũng hư gỉ nặng, và hình thù nhô ra từ bùn cát làm cô nghĩ đến cái búa cao su tròn tròn mà bác sĩ Robb dùng để thử phản xạ, gõ gõ phần nhọn nhất vô cái lõm dưới đầu gối. Cô dùng chân thử nạy cái vật đó lên, sục cái ủng xuống bùn móc nó lên, làm cái phần trên động đậy; cô thấy rằng phần thân của nó dài hơn cây búa của bác sĩ Robb, nó dính liền với một cái gì khác không chịu nhả ra.

Cô tháo găng tay ra, cúi xuống, nắm lấy cái phần nhô ra, giựt kéo. Ngón tay tiếp xúc với không khí lạnh cóng, tê dại chạm vô kim loại; cô nghĩ nếu không lấy được cái vật kia cho mau lẹ thế nào mình cũng rụng mất bàn tay. Cho bàn tay trái vào trong túi áo, giữ ấm, cô dùng tay phải để kéo. Lớp bùn cát lơi dần, lơi dần, từ từ nhả ra, cô thấy cái vật đó trồi lên trong ụ bùn, và cô đổi tay, dùng tay trái lôi nó. Lúc này cô cúi hẳn người, tập trung cao độ, giựt giựt kéo kéo, và rột một cái lớp bùn nhả ra, nhả hết cái vật đó ra, trong một ụ bùn to vật.

Cô nghe tim đập dồn khi cô ngó xuống. Cô đút cả hai tay vào túi áo, cho ấm. Hơi thở phả ra trắng muốt. Cô chúm môi thở phì ra như khói.

“Em tìm thấy gì vậy Rube?” cô nghe Abe gọi từ đằng xa, giọng nói nghèn nghẹn trong cổ áo.

Cô không muốn các anh mình lại gần, chưa phải lúc, cô còn chưa chắc mình tìm thấy gì mà. “Chưa biết nữa,” cô trả lời.

Nhanh nhảu, cô lùa mấy ngón tay vào trong bùn lạnh, nó chảy từng cục ướt át. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái thứ mà cô tìm thấy, nhưng vẫn khó tin làm sao, dù đã cầm nắm trên đôi tay cóng: một khẩu súng. Một khẩu súng, hoen gỉ là thế nhưng vẫn không nhầm lẫn vào đâu hết. Cô nắm lấy; cô quên mất, trong thoáng chốc, những ngón tay tê cứng, và đầu gối đau nhức, và hơi thở bồng bềnh, và cái nón len cạ vô da đầu ngứa muốn chết. Khẩu súng nằm trong lòng bàn tay. Nặng trịch và có thiệt, là cái cô đang cầm.

Cô nghĩ đến cha mình, ông không ưa súng ống tí nào. Ông phản ứng với súng ống trên tivi, trong phim ảnh, bất cứ cách thức nào chúng xâm nhập vào nhà ông – từ súng đồ chơi mà các anh cô mê mệt nhiều năm về trước, cho tới khẩu súng hơi BB mà họ giấu giếm cho tới khi bị ông phát hiện đang bắn sóc ngoài trời (và sau đó cấm cung tới hai tuần). Ông nói với các con, dặn đi dặn lại, rằng đừng bao giờ chĩa súng vào nhau, kể cả súng giả, kể cả giỡn chơi, kể cả những khi dùng hai ngón tay thành hình khẩu súng. Ông luôn nghiêm túc mỗi khi nói thế, ông luôn nghiêm mặt mỗi khi nhìn vào bọn họ và nói “Ta cấm!” và khi họ hỏi tại sao, có gì ghê gớm lắm đâu, thì ông luôn nói “Súng ống không phải trò đùa” và “Đừng hỏi tại sao, cứ nghe ta đi.”

Bây giờ, khi các anh cô đi về phía mình, Ruby biết khám phá của cô sẽ bị phát hiện, và cô giương súng quyết liệt, kiêu hãnh và thách thức. Vẫn còn bám đầy bùn, khẩu súng không dễ nhận ra, nhưng hình dạng của nó thì quá rõ. Nắm cả hai tay, cô chĩa súng về phía các anh trai. “Đưa tay lên!” cô hét, kiêu hùng.

Họ đứng khựng lại, chỉ cách cô vài bước chân; Ruby nhìn thấy sự ngạc nhiên trong cơ thể họ, sự ngần ngừ, như thể một con chó giữ nhà vừa chồm về phía họ. Chỉ là một tích tắc, nhưng quyền uy làm cô sướng rơn, nó rân rân cả người. Rồi họ bình thường, và Abe bước tới trước cô em.

“Chúa ơi, Ruby,” anh ấy nói.

“Cái gì vậy?” Nathan hỏi. Anh chàng đưa tay muốn lấy nó, và cô liền trao. Đã quên mất cái lạnh nơi tay, nhưng khi khẩu súng đi rồi nó trở lại đau xé nát. Cô cho tay trở vào găng, bùn với nước, và đút vô túi áo cho tan băng.

“Lạy Chúa tôi.” Nathan cúi mặt sát khăn choàng cổ trong khi lướt những ngón tay trên khẩu súng, lau bớt lớp bùn ra khỏi kim loại sét gỉ.

“Có phải súng không?” Aaron nói, lúc này đã tới sát, giọng nói nghẹt nghẹt sau cái mũ trùm đầu. Tiếng Aaron không rõ ràng nhưng cương quyết. “Không đời nào! Có phải thiệt không ta?”

“Thiệt đó anh,” Ruby nói. “Em tìm thấy đó! Nó chĩa lên từ dưới bùn!” Lúc này thì cô vui vẻ sẻ chia với họ.

“Chúa ơi.” Abe chìa tay ra. “Nate, đưa anh xem nào.”

Nathan ngập ngừng, rồi nhún một bên vai và đưa khẩu súng sang tay Abe. Abe nắm lấy, tung lên coi nặng nhẹ ra sao, rồi quay quay. Gương mặt đã lộ ra, cổ áo trễ dưới cằm. Những vết mụn thô ráp, tạo sần sùi trên toàn cảnh gương mặt.

“Chà”, anh nói. “Coi bộ cái này vùi lấp cũng nhiều năm rồi. Nhìn nè” – anh ấy đưa súng lên ngang tầm mắt Aaron – “có hàu bám vô nè.”

“Ờ há.” Aaron nhìn chằm chằm vào đó, nghiêng người về phía Abe. Anh ấy thèm cây súng thấy rõ, Ruby dám chắc như vậy. “Cho em coi với?”

Abe rụt khẩu súng lại và xoay mấy vòng. Aaron chìa tay ra. “Thôi đi cha, đưa em coi với.” Abe đưa cây súng, con mắt còn liếc theo.

Aaron gí sát mặt vào khẩu súng, xem xét. Ưng Nhãn, Ruby nghĩ, chả trách cha họ đã đặt cho anh Aaron cái biệt danh đó, vì năng khiếu quan sát. Mắt anh ấy luôn nhanh nhẹn và tập trung: anh ấy có thể nhìn thấy con cua trong vũng nước từ xa mười lăm bộ. Khi nào đi khách sạn, cha họ luôn biệt phái Aaron quét dọn phòng trước khi đi coi có quên gì không. “Ưng Nhãn,” cha ra lệnh, “kiểm tra dùm.”

Aaron xem xét khẩu súng như thể anh ấy là người chế tác, như thể là một tác phẩm điêu khắc ở lớp mỹ thuật vẫn theo học gần nhà. Anh ấy đưa súng lên trước mắt và xoay mấy vòng. “Ui chao. Không thể tin nổi. Tìm thấy trong mớ bùn này.” Anh ấy cười ngoác mang tai, gương mặt trái xoan trong cái nón trùm đầu. “Khá lắm, Ruby! Sao tui lại không thấy ta?”

Ruby nhún vai, cười tươi.

“Làm sao mà nó nằm chỗ đó nhỉ?” Nathan hỏi, tay cho trở vô túi.

“Ai đó muốn thủ tiêu bằng chứng,” Aaron nói. “Chỉ có cách giải thích đó thôi”.

Bọn họ lặng im trong giây lát, hình dung. Ruby thấy có người đàn ông bơi xuồng, cây súng để trên đùi, anh ta thả súng xuống nước, mắt nhìn xuống mạn xuồng coi nó chìm ra sao. Chìm ra sao nhỉ, kim loại chìm vào nước biển đục, có giống tôm cá không? Mùa hè mấy năm trước Aaron từng câu trúng một con cá mập trên thuyền của cha: cá mập con thôi, nhưng cũng đã bằng nửa thân người Ruby lúc đó. Cô nhoài người qua mạn thuyền trong khi anh mình lôi nó vô, cô thấy nó hiện rõ dần trong đáy nước, lúc đầu chỉ là một vệt thẫm mơ hồ, rồi một cú quẫy thân kỳ lạ, rồi từ từ, hiện nguyên con, to dần lên, cho tới khi cái đầu nhô hẳn lên mặt nước. Nathan, cùng với Ruby chồm qua mạn xuồng, la to, “Cá mập nè! Dính cá mập!” và Abe, đang nằm nghỉ trên xuồng cao su buộc vô đuôi thuyền, liền chồm dậy và la lớn, “Kéo anh lên! Kéo lên dùm!” Khi con cá mập được lôi khỏi mặt nước, và Aaron giơ cao cần khiến con cá giãy nảy vô vọng, cha họ cười với Abe, nói, “Mèn ơi, chỉ là một con cá mập con thôi mà.” Nhưng Ruby phải đồng ý với Abe, con cá coi bộ nguy hiểm, ngay cả khi Aaron đã quăng nó lên boong và tháo lưỡi câu ra. Nãy giờ cô nhìn nó chằm chằm, và khi Aaron nhoài qua mạn thuyền để thả nó, cô cũng chồm theo. Khi cô dõi theo con cá biến mất vào lòng biển sâu, một vệt màu mất hút vào hư vô, cô có cảm giác vừa nhẹ nhõm, vừa nuối tiếc.
 
(Còn tiếp)
Other News