Nourishing soul, Broadening mind

Góp Ý

Bất tử - Alyson Noel - phần 2
Update Date: 03/10/2010

TÔI ĐI VÀO NHÀ, lấy một chai nước trong tủ lạnh, rồi đi thẳng lên phòng mình ở trên lầu. Không cần lên tiếng gọi hay chạy đi tìm, tôi cũng biết lúc này cô Sabine vẫn còn đang làm việc.

Cô Sabine lúc nào cũng làm việc.

Điều đó nghĩa là tôi chỉ có một mình trong căn nhà to đùng, rộng lớn này. Và cũng vì thế nên hầu như lúc nào cũng vậy, tôi chỉ ở trong phòng riêng của mình.

Tôi cảm thấy buồn cho cô Sabine.

Tôi cảm thấy buồn, vì cuộc sống mà cô phải làm việc cật lực để tạo dựng đã mãi mãi thay đổi kể từ khi cô “kẹt cứng” với tôi.

Ông bà nội ngoại của tôi đều mất sớm khi mẹ tôi mới lên hai. Cô là em song sinh của bố - người thân duy nhất còn lại của tôi. Vì vậy, có vẻ như cô chẳng có nhiều chọn lựa. Sau tai nạn, chỉ có cách duy nhất là cô nhận nuôi tôi, nếu không muốn cho tôi vào trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi đến khi tôi mười tám tuổi.

Mặc dù chẳng biết tí gì về việc nuôi một đứa trẻ trước đó, nhưng trước khi tôi được ra viện, cô đã kịp bán căn chung cư để mua cái nhà to đùng này và thuê người trang trí lại căn phòng của tôi theo cách cô cho là phù hợp với tôi nhất.

Tôi có tất cả mọi thứ trong phòng: Giường ngủ, tủ quần áo, bàn học. Có cả tivi màn hình phẳng, một bể tắm nhỏ tuyệt đẹp với buồng tắm vòi sen kế bên. Một hành lang có tầm nhìn hướng ra biển. Rồi thì phòng chơi game riêng với một tivi màn hình phẳng nữa. Một quầy bar nhỏ để thức uống, lò vi ba, tủ lạnh mini, máy rửa chén, dàn âm thanh stereo, sofa, bàn, ghế ngồi có đệm, và cả những bức tranh.

Thật buồn cười vì trước đây tôi chưa bao giờ có được một căn phòng riêng như thế. Nhưng bây giờ, tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả để được trở về với những gì mình từng có!

Tôi đoán, vì cô Sabine suốt ngày phải dành thời gian cho công ty, cho những nhân vật quan trọng nên cô nghĩ rằng những đồ vật như vậy là cần thiết và có thể làm tôi hạnh phúc - dẫu chỉ là đôi chút. Tôi cũng chưa bao giờ chắc rằng liệu việc cô không có con là bởi vì cô làm việc suốt ngày nên không rảnh lên kế hoạch; vì cô chưa gặp được người vừa ý; vì cô không muốn yêu ai; hay vì cả ba lý do trên.

Là một người có năng lực siêu linh, thế nhưng trường hợp của cô Sabine giống như một “ca” khó với tôi. Hầu hết những điều tôi thấy được về cô chỉ là những sự kiện. Mọi thứ giống như một chuỗi những hình ảnh, xếp nối tiếp nhau. Và đôi khi, những gì tôi thấy được chỉ là những biểu tượng mà tôi chưa thể giải mã hết.

Thỉnh thoảng, với những người khác, mặc dù tôi thấy được những sự kiện liên quan đến họ hết sức rõ ràng, nhưng có những lúc tôi vẫn đoán sai. Tự bản thân hình ảnh thì lúc nào cũng chân thật. Nhưng để xác định được hình ảnh thấy được đó nghĩa là gì thì không phải lúc nào tôi cũng làm chính xác.

Nhưng chắc hẳn là dù không có thứ năng lực siêu linh này, tôi vẫn có thể dễ dàng biết được một người phụ nữ như cô Sabine khao khát có một đứa con đến thế nào khi mà những gì cô nghĩ đến thường xuyên là những con búp bê nhỏ xinh xắn, chứ không phải một thiếu nữ cao một mét sáu, mắt xanh, tóc vàng hoe với một tấn cảm xúc chứa trong người như tôi. Vì điều đó mà tôi luôn cố gắng giữ im lặng, cố gắng tôn trọng, và cố gắng không làm vướng bận cô Sabine.

Tôi nói chuyện với đứa em gái đã qua đời trong tai nạn hầu như mỗi ngày. Lần đầu tiên Riley xuất hiện, con bé đứng phía cuối giường của tôi trong bệnh viện vào khoảng nửa đêm, một tay cầm bó hoa, tay kia vẫy vẫy. Tôi ngỡ ngàng trong cảm giác thực và ảo. Con bé chẳng nói chẳng rằng, thậm chí chẳng tạo ra một tiếng động dù nhỏ nhất. Tôi đoán đó chỉ là ảo giác của mình, hay chẳng qua đó có thể là một thứ gì đó mờ mờ trong không khí. Tôi còn tưởng mình bị ảo giác vì phản ứng phụ của thứ thuốc giảm đau mà tôi mới uống. Nhưng sau khi chớp mắt liên hồi, chà nhiều lần vào mắt mình, tôi nhận ra con bé vẫn ở đó, rõ mồn một. Tôi đoán, nó tin tưởng rằng tôi sẽ không sợ hãi kêu la hay gọi người đến giúp.

Quả là tôi im lặng thật. Không sợ hãi. Không kêu la hay gọi người đến giúp.

Tôi nhìn con bé khi đứa em thân yêu đến bên cạnh giường tôi, chỉ tay vào cánh tay và cái chân đang bó bột của tôi, rồi cười. Nó cười không thành tiếng. Chỉ là một động tác trên mặt giống như nụ cười “ảo” vậy. Nhưng ngay khi thấy tôi có vẻ giận thì con bé liền thay đổi nét mặt, không đùa nghịch, không cười chọc quê nữa mà như muốn hỏi có đau không chị.

Tôi nhún vai, vẫn còn một chút giận giận kiểu trẻ con vì nụ cười của em mình ban nãy. Rồi mặc dù không hoàn toàn tin con bé có thật, nhưng điều đó cũng không thể ngăn tôi hỏi: “Bố mẹ và con Buttercup đâu rồi?”.

Con bé làm động tác nghiêng đầu sang một bên, như thể họ đang đứng ngay đằng sau nó. Nhưng tất cả những gì tôi có thể thấy là khoảng không trống rỗng.

“Chị không thấy!”.

Tôi thở dài hơi tuyệt vọng. Nhưng con bé chỉ mỉm cười, áp hai bàn tay lại, nghiêng đầu sang một bên như kiểu các em bé vẫn làm để khuyên tôi ngủ lại đi.

Tôi ngoan ngoãn nhắm mắt như thể nghe theo lời khuyên của con bé. Nhưng ngay sau đó, tôi lập tức mở mắt ra và hỏi: “Ê, ai cho em mượn cái áo lạnh của chị?”.

Chỉ có thế thôi. Rồi con bé biến mất.

Tôi thừa nhận, tối hôm đó tôi đã rất giận chính mình vì câu hỏi ngu ngốc, hời hợt và ích kỷ mà tôi đã thốt ra. Đáng lẽ lúc đó tôi phải hỏi về những điều quan trọng nhất liên quan đến cuộc sống con người. Ví dụ như có thật sau khi chết, linh hồn vẫn tồn tại như thế không? Bố mẹ như thế nào? Em tôi như thế nào? Vậy mà tôi đã phí thời gian căn vặn em mình về những điều vớ vẩn như kiểu sao em lấy cái áo lạnh của chị mà không hỏi. Tôi đoán, có lẽ đó là một thói quen lâu đời rất khó bỏ của con người.

Lần thứ hai con bé xuất hiện, tôi rất đỗi vui mừng. Tôi không còn đề cập đến chuyện sao em mặc chiếc áo lạnh yêu thích nhất của tôi, sao em mặc chiếc quần jeans đẹp nhất của tôi (chiếc quần vẫn dài thượt qua khỏi mắt cá chân của con bé), hay sao em giành đeo cái vòng tay xinh đẹp mà tôi được tặng nhân dịp sinh nhật lần thứ mười ba - cái vòng tôi biết em rất thích.

Tôi chỉ mỉm cười, gật đầu, ra vẻ như không nhận ra đó là những đồ vật của mình. Tôi nghiêng người về phía em và hỏi: “Bố mẹ đâu?”, lòng thầm tin họ sẽ xuất hiện nếu tôi chịu nhìn thật kỹ.

Nhưng Riley chỉ cười và vẫy hai tay hai bên.

“Ý em... bố mẹ là thiên thần hả?”, mắt tôi mở to tỏ vẻ ngạc nhiên.

Con bé lập tức trợn tròn mắt và lắc đầu, ôm bụng cười dù không hề phát ra bất kỳ âm thanh nào.

“Thôi được rồi, sao cũng được!”. Tôi nằm trở lại lên giường. “Vậy nói cho chị biết ở bên đó ra làm sao?”, tôi hỏi một cách nhẹ nhàng. “Em... Em có thích... À, có thích cuộc sống ở thiên đường không?”.

Con bé nhắm mắt, giơ hai tay lên cao như thể cố giữ thăng bằng vật gì, và ngay sau đấy một bức tranh xuất hiện.

Tôi chồm người tới trước, nhìn chằm chằm vào bức tranh. Chắc chắn đây là cảnh thiên đường được vẽ nên sau cái khung ảnh bằng vàng, chạm trổ tinh vi. Đại dương xanh thẳm, những vách đá hùng vĩ nhô ra biển, bãi cát vàng, cây cỏ đầy hoa, và bóng mờ của một hòn đảo xa xa.

“Vậy sao em không ở đó?”, tôi hỏi.

Con bé khẽ nhún vai. Ngay sau cái nhún vai, bức tranh biến mất. Em tôi cũng biến mất.

Tôi ở lại trong bệnh viện hơn một tháng, chịu đau đớn vì bị gãy xương, chấn động, chảy máu bên trong, trầy và thâm tím khắp cơ thể. Cộng với một vết thương khá sâu trước trán. Trong suốt thời gian tôi đang điều trị tại bệnh viện, thì cô Sabine phải một mình lo việc dọn dẹp nhà cửa, sắp xếp đám tang, và chuẩn bị đồ đạc của tôi để chuyển về nhà mới.

Cô dặn tôi lên danh sách những món đồ mà tôi muốn mang theo. Nhưng ngoài những bộ quần áo, thì tôi không muốn mang theo gì cả. Tôi không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy những thứ có thể khơi gợi, nhắc nhở tôi nhớ lại những điều thiêng liêng mà tôi đã mất đi. Những thứ đồ vật vô tri vô giác ấy chỉ làm tôi đau đớn, chứ không thể trả lại cho tôi gia đình của tôi được.

Trong suốt thời gian nhốt mình trong căn phòng lạnh lẽo màu trắng, tôi được một bác sĩ tâm lý đến thăm đều đặn. Đấy là một bác sĩ tâm lý hay mặc cái áo len màu be và lúc nào cũng kè kè bìa kẹp hồ sơ. Ông luôn bắt đầu câu chuyện bằng những câu hỏi không đâu vào đâu, hướng dẫn cho tôi làm cách nào để đối phó với “những mất mát sâu sắc”, dù thực tế là những cách ấy chỉ phù hợp với ông chứ không phải với tôi. Sau đó, ông cố thuyết phục tôi đến phòng 618 - nơi tư vấn cho những nỗi niềm đau đớn như tôi.

Nhưng tôi không tham gia vào cuộc tư vấn đó.

Tôi không thể ngồi cùng với những người đau khổ khác để chờ đến lượt mình chia sẻ câu chuyện về một ngày tồi tệ nhất đời tôi.

Như thế thì giải quyết được cái gì? Làm sao tôi có thể cảm thấy tốt hơn sau khi kể những câu chuyện đó cho một người xa lạ được?

Cô Sabine và tôi chẳng nói chuyện với nhau nhiều trên chuyến bay từ Eugene đến sân bay John Wayne. Tôi giả vờ như đó là vì những vết thương trên cả thể xác lẫn tâm hồn của mình còn quá nặng nề. Nhưng thật ra, đơn giản chỉ là tôi cần một khoảng không tĩnh lặng. Tôi biết tất cả những cảm xúc đối lập bên trong cô. Một bên, cô thật sự mong muốn làm một việc tốt cho tôi, nhưng một bên khác cô lại luôn suy nghĩ: Sao lại là mình - phải đứng ra giải quyết hết tất cả những chuyện này?

Tôi biết điều đó. Nhưng tôi hoàn toàn không muốn làm tổn thương cô. Sau tất cả những rắc rối, những bấn loạn mà cô vừa trải qua, sau tất cả những nỗ lực và hi sinh của cô để có thể đón tôi về một căn nhà đẹp, tôi không thể làm một hành động ngốc nghếch để cho cô biết rằng tất cả những việc vất vả mà cô đã làm với mục đích tốt đẹp lại hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi!

Con đường vào nhà mới lờ mờ trong ánh mặt trời, biển và cát.

Khi cô Sabine mở cửa, dẫn tôi lên lầu đến phòng tôi, tôi nhanh chóng liếc nhìn cô một cái rồi thì thào một câu gần như cảm ơn.

“Cô xin lỗi, cô chưa kịp dọn dẹp hết mọi thứ. Chắc con phải tự dọn dẹp phòng này!”, cô nói như thể cho có chuyện để nói, rồi quay gót trở lại với căn phòng làm việc ngăn nắp của mình.

Khép cánh cửa lại, khi chỉ còn một mình trong phòng, tôi quăng mình lên giường, úp mặt vào hai cánh tay, thờ thẫn.

Cho đến khi tôi nghe tiếng một ai đó vang lên: “Ôi trời ơi, chỗ này mới đẹp làm sao! Chị ngắm nó chưa? Màn hình phẳng, lò sưởi, bồn tắm...”. Con bé liến thoắng.

“Chị tưởng em không thể nói được?”, tôi xoay mình lại, nhìn chằm chằm vào em gái tôi. Con bé đang mặc bộ quần áo thể thao màu hồng, hàng hiệu hẳn hoi. Giày Nike màu vàng. Và mái tóc nhuộm màu sáng.

“Dĩ nhiên là em có thể nói chứ! Chị đừng hung tợn với em thế!”. Con bé tròn xoe mắt, vẫn kiểu hay “gây sự” của chị em gái với nhau.

“Nhưng sao mấy lần trước đây...”, tôi ấp úng không hết câu.

“Em chỉ đùa thôi!”. Con bé đi xung quanh phòng tôi, lướt tay trên chiếc bàn, lướt tay trên chiếc laptop mới cáu cạnh và chiếc iPod mà cô Sabine đã để sẵn ở đó.

“Em không thể tin được chị lại có cả một căn phòng như thế này. Thật là không công bằng!”. Con bé chống nạnh, nét mặt hơi cau có. “Vậy mà chị còn không biết giá trị của nó, cứ nằm thừ ra như thể mình là người đau khổ nhất trần gian ấy. Chị có thấy khung cảnh ngoài ban công chưa? Trời ơi, ở đây có cả một không gian tuyệt vời xung quanh!”.

“Chị chẳng quan tâm đến khung cảnh”, tôi khoanh tay trước ngực. “Và chị không thể tin là em đối xử với chị như thế, giả vờ không nói được hết lần này đến lần khác...!”.

Con bé nháy mắt, khẽ cười: “Rồi chị sẽ bỏ qua thôi”.

Tôi nhìn theo bóng con bé sải bước đi ngang qua phòng tôi, kéo rèm sang một bên và cố mở cánh cửa.

“Ở đâu em có những thứ trang phục, áo quần này vậy?”, tôi chăm chú nhìn em gái mình từ đầu đến ngón chân, nhanh chóng trở lại với thói quen thường ngày - hay cãi vặt và hay ganh tức lẫn nhau.

“Lần trước em mặc áo quần của chị. Còn lần này thì áo quần của ai nữa đây? Chị biết chắc mẹ không bao giờ mua cho em những thứ như thế này!”.

Con bé cười.

“Thôi đi bà chị ơi, làm như em cần mẹ cho phép mới được đến phòng để quần áo và chọn những thứ mà em muốn vậy. Miễn phí mà!”, con bé lại nháy mắt, cười cười.

“Thật hả?”, mắt tôi mở to hơn, ngơ ngác.

Nhưng thay vì xác định lại câu vừa nói, con bé chỉ lắc đầu và vẫy tay gọi tôi. “Đi xem cảnh đẹp ở ngoài kia đi!”.

Tôi ra khỏi giường, lấy tay áo dụi mắt và đi thẳng ra ban công. Theo sau là em tôi. Khi tôi bước chân lên nền gạch đá, mắt tôi mở to nhìn khung cảnh xung quanh mình.

“Cái gì nữa đây?”, tôi nhìn chằm chằm vào cảnh tượng xung quanh mình. Đó chính xác là những gì như trong bức tranh vẽ thiên đường mà em tôi đã cho tôi xem lúc ở bệnh viện.

Nhưng khi tôi quay sang tìm con bé thì nó đã biến đi đâu.
 
BỐN

Riley là người giúp tôi phục hồi lại trí nhớ của mình. Con bé nhắc tôi nhớ lại những chuyện thời thơ ấu, những khoảnh khắc mà chúng tôi đã từng sống với nhau, và những bạn bè mà chúng tôi từng có. Nó cũng giúp tôi yêu mến, nâng niu hơn cuộc sống mới của mình ở miền nam California này. Việc Riley tỏ ra rất thích thú căn phòng xinh đẹp của tôi, chiếc xe mới màu đỏ bóng lộn của tôi, những bãi biển của tôi và ngôi trường mới của tôi làm cho tôi nhận ra rằng mặc dù đó không phải là cuộc sống tôi thích, nhưng những điều này vẫn có giá trị của nó.

Chúng tôi vẫn tranh cãi với nhau đủ thứ chuyện vặt vãnh, nhiều như trước đây, nhưng thật sự là tôi tồn tại chính nhờ những lần viếng thăm của đứa em gái của mình. Vì có thể gặp lại được con bé nên tôi bớt đi một người để nhớ. Quãng thời gian chúng tôi được ở với nhau là quãng thời gian vui vẻ nhất trong ngày.

Chỉ có một vấn đề là nó không bao giờ chịu nhượng bộ để nói cho tôi biết những điều mà tôi nung nấu trong lòng. Mỗi khi tôi hỏi: “Khi nào thì chị có thế gặp bố mẹ và con Buttercup? Em đi đâu khi không ở đây?”, nó liền phạt tôi bằng cách không cho tôi gặp mặt.

Sự từ chối chia sẻ của Riley làm tôi cảm thấy khó chịu, nhưng tôi biết dẫu sao thì có nó bên cạnh vẫn hơn. Tôi thay đổi nhiều so với trước đây. Không chỉ là việc nhìn thấy những vầng hào quang mắt thường không thấy được, không chỉ là việc đọc được suy nghĩ của người khác, mà còn là những thay đổi rất lớn như cách ăn mặc ngày thường.

“Chị không bao giờ muốn bạn trai mình ăn mặc như thế!”, Riley vừa lẩm bẩm vừa đi thơ thẩn trên giường tôi trong khi tôi đang cuống cuồng làm những việc thường nhật vào buổi sáng, chuẩn bị để ra khỏi nhà và đến trường đúng giờ.

“Vâng, không ai trong chúng ta có thể nhắm mắt và hô biến, rồi có ngay tủ quần áo mới!”, tôi nói, xỏ chân vô đôi giày tennis đã mòn và buộc sợi dây giày sờn cũ.

“Này... Cô Sabine đâu có tự nhiên đưa cho chị cái thẻ tín dụng của cô ấy! Và cái mũ trùm đầu nữa. Chị thuộc nhóm găng-xtơ à?”.

“Chị không có thời giờ để tranh cãi chuyện này”, tôi với tay chụp lấy mấy quyển sách, iPod và cái ba lô, rồi đi thẳng ra cửa. “Em đi cùng không?”, tôi quay sang nhìn con bé, sự kiên nhẫn mỏng dần đi khi cứ phải nhìn nó mím môi suy nghĩ.

“Được thôi”, cuối cùng Riley cũng chịu lên tiếng. “Nhưng chỉ khi chị để mui trần. Em thích cảm giác gió thổi vào tóc”.

“Ừ”, tôi đi đến cầu thang. “Chỉ cần em bảo đảm rằng em sẽ đi khi chúng ta đến chỗ của Miles. Chị không thích cái trò em ngồi trên xe, trong lòng của cậu ta, chọc ghẹo đủ điều mà cậu ta thì không thể thấy đâu nhé!”.

Khi Miles và tôi đến trường thì Haven cũng đang chờ ở cổng. Chỉ nhìn mặt thôi, cũng biết Haven đang sốt ruột đến độ nào. “Còn chừng năm phút nữa chuông sẽ reo mà chẳng thấy bóng dáng của Damen đâu. Các cậu có nghĩ anh ấy bỏ học không?”. Cô bạn nhìn chúng tôi, đôi mắt vàng mở to đầy vẻ hoang mang.

“Sao anh ta có thể bỏ học chứ? Anh ta mới bắt đầu mà!”. Tôi nói, đi thẳng đến ngăn tủ đựng vật dụng cá nhân của mình trong khi cô bạn vẫn vừa đi vừa nhảy nhót bên cạnh. Đế giày cao su nện xuống mặt đường.

“Ừm, anh ta nghỉ học bởi vì... Bởi vì chúng ta chẳng có giá trị gì? Bởi anh ấy quá tuyệt vời đến mức không có thật?”.

“Nhưng anh ta phải quay lại chứ. Damen còn mượn của Ever cuốn Đỉnh Gió Hú mà, anh ta phải trả lại chứ!”. Miles nói trước khi tôi kịp ngăn cậu bạn mình.

Tôi nhăn mặt, lắc đầu và vặn mở ổ khóa tủ, cảm nhận được cái nhìn trừng trừng giận dữ của Haven ngay phía sau lưng.

“Chuyện đó xảy ra hồi nào vậy?”. Cô bạn chống nạnh nhìn tôi chằm chằm. “Tớ cũng là một phần trong nhóm của chúng ta, đúng không? Vậy tại sao tớ không được cập nhật thông tin? Tại sao không ai nói với tớ điều đó? Lần cuối cùng tớ nghe cậu nói thì cậu còn khẳng định chưa từng nhìn anh ta lấy một lần”.

“Ô, thôi nào... Ever gặp anh ấy rồi. Tớ hầu như phải gọi cấp cứu đấy! Trông cậu ấy cứ như bị thôi miên”, Miles cười.

Tôi nhíu mày, lắc đầu, đóng ngăn tủ cái rầm và đi thẳng xuống hội trường.

“Đó là sự thật mà!”. Cậu bạn nhún vai.

“Hãy để tớ đi thẳng vào vấn đề. Cậu có vẻ như không xem bọn tớ ra gì... Thích làm bất cứ điều gì cậu thích... Và thích trở thành một trở ngại cho chính tớ?”. Haven săm soi tôi bằng cặp mắt nhíu lại, giống như hai lằn gạch đậm trên gương mặt. Lòng ghen tị của cô nổi lên cũng khiến vầng hào quang quanh cô đổi sang màu xanh lá nhợt nhạt và tối sầm.

Tôi hít một hơi thật dài rồi nhìn họ, trong đầu nghĩ thầm, nếu họ không phải là bạn tôi, tôi sẽ nói cho họ biết chuyện này buồn cười ra sao. Chẳng lẽ Damen là người có thể để cho những người khác tuyên bố đồng-sở-hữu? Nhưng tôi không thốt ra thêm tiếng nào. Tôi chỉ nói khẽ khàng: “Vâng, tớ là người gây khó khăn. Tớ là thảm họa to lớn chực chờ xảy ra mà không hề báo trước được. Nhưng tớ nhất định không phải là mối đe dọa của cậu. Chủ yếu bởi vì tớ không quan tâm. Tớ biết điều đó thật khó có thể tin được. Anh ta quá đẹp trai, quyến rũ, nóng bỏng, nhưng sự thật là tớ không thích Damen Auguste, và tớ không biết làm thế nào để nói ra điều đó!”.

“Ừm, tớ không nghĩ cậu cần nói điều gì nữa!”. Haven lầm bầm. Gương mặt như đóng băng khi nhìn chằm chằm thẳng về phía trước.

Tôi nhìn theo cô ta. Phía đó, nơi ánh mắt Haven hướng tới, chính là Damen. Tóc đen bóng mượt, cặp mắt cháy bỏng, thể hình tuyệt vời. Nụ cười đầy vẻ thấu cảm. Tôi thấy tim mình đập loạn nhịp khi anh giữ cánh cửa mở và lịch sự nói khẽ: “Chào Ever! Vào trước đi!”.

Tôi lao về phía bàn của mình, cẩn thận tránh cái ba lô mà Stacia đặt giữa đường, mặt đỏ bừng lên bối rối khi biết rằng Damen đi ngay phía sau lưng tôi và anh ta có thể đã nghe thấy tất cả những lời khủng khiếp mà tôi vừa nói.

Tôi quăng cái ba lô xuống sàn, ngồi vào chỗ của mình, lật cái mũ trùm đầu ra, đeo tai nghe vào và mở cái iPod thật lớn với hi vọng những thanh âm ồn ã này sẽ làm phai nhạt đi những chuyện vừa mới xảy ra. Hy vọng thế. Một chàng trai cuốn hút, hoàn hảo, tự tin và tuyệt vời như thế này chắc chắn không thể bị quấy rầy bởi những câu nói kinh khủng từ một cô gái như tôi.

Nhưng ngay khi tôi vừa mới bắt đầu thư giãn, vừa mới thuyết phục mình đừng có bận tâm quá nhiều đến chuyện xảy ra, thì tôi giật nảy người lên bởi một cảm giác như có dòng điện truyền thẳng vào người, làm nghẽn tĩnh mạch, và làm toàn thân tôi chới với.

Đó là vì Damen nhẹ nhàng đặt tay anh ta lên bàn tay tôi.

Thật kỳ lạ. Kỳ lạ không giải thích nổi! Kể từ khi tôi có năng lực siêu linh, không ai làm được như thế với tôi, trừ đứa em gái Riley - người lúc nào cũng tìm ra cách mới để cố tình chọc phá tôi cho bằng được.

Mọi cử chỉ “va chạm” với người khác đều giúp tôi cảm nhận được suy nghĩ của họ, thấy được điều họ nghĩ. Chỉ duy nhất động tác của Damen khiến tôi như bị điện giật, song lại hoàn toàn trống rỗng, không cảm nhận được gì như thế này.

Khi tôi liếc nhìn bàn tay mình và gương mặt Damen, anh chỉ cười, nói khẽ: “Cảm ơn Ever về cuốn sách!”. Rồi anh đưa lại cho tôi cuốn Đỉnh Gió Hú.

Thật kỳ lạ. Tôi có cảm giác như lúc anh ta nói, cả căn phòng này thốt nhiên đều im bặt. Không một thanh âm. Không một suy nghĩ vang lên như tôi luôn nghe được. Không gì cả. Cứ như một cái gì đó, rỗng không.

Tôi lắc đầu, lúng búng trong miệng những câu chữ lắp bắp. “Anh có thể giữ nó mà! Tôi đọc rồi... Tôi biết câu chuyện kết thúc ra sao rồi!”.

Nhưng Damen đã lấy bàn tay ra khỏi tay tôi.

Tức thì, cảm giác như điện giật cũng không còn.

“Tôi cũng đã biết cái kết của nó rồi!”, anh ta nói, nhìn chằm chằm tôi với một ánh nhìn mãnh liệt khó tả nhưng đầy vẻ thân thiện. Tôi vội vàng nhìn ngay sang chỗ khác.

Khi tôi gắn tai nghe vào để không phải nghe những lời bình luận xì xào không tốt của Stacia và Honor thì Damen đặt tay anh ta lên tay tôi trở lại và hỏi khẽ: “Ever, bản nhạc gì đấy?”.

Trong tích tắc, cả căn phòng lại chìm trong im lặng.

Trong tích tắc, tôi tuyệt đối không còn nghe thấy có suy nghĩ nào bay vòng vèo. Không có tiếng xì xào. Không có gì cả ngoại trừ chất giọng âm ấm, đê mê của anh ta.

Rõ ràng đó không phải là cảm giác hay ảo tưởng. Tôi biết đó là sự thật. Mặc dù xung quanh tôi, mọi người vẫn đang nói chuyện, đang suy nghĩ, đang làm đủ thứ như thường lệ nhưng âm thanh của anh đủ sức ngăn cản tất cả.

Tôi nghiêng người, cảm nhận toàn thân tôi trở nên ấm và như có dòng điện đang chạy xuyên suốt, tự hỏi không biết điều gì có thể tạo ra cảm giác như vậy. Tôi chưa bao giờ trải nghiệm cảm giác như thế này.

“Ever đang nghe gì vậy?”. Anh ta cười. Một nụ cười thân thiện dành riêng cho tôi, tôi cảm thấy máu dồn lên mặt làm đỏ ửng hai má và cả hai vành tai.

“Ừm... Chỉ là những bản hòa âm do cô bạn Haven của tôi làm. Cũ lắm rồi, đâu những năm tám mươi, như Cure, Siouxsie và Banshees, Bauhaus”. Tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta, cố xác định chính xác màu mắt.

“Ever nghe dòng nhạc đó thật à?”. Anh ta hỏi, chân mày nhíu lại đầy vẻ hoài nghi. Ánh mắt lướt qua tôi từ đầu đến chân, như để “kiểm định” rằng mái tóc vàng buột kiểu đuôi ngựa, cái áo khoác màu xanh đậm, không chút phấn son lòe loẹt, không vết xăm hay nét vẽ nào này lại có thể phù hợp với dòng nhạc ấy.

“Không hẳn vậy. Haven mới chính hiệu là fan của dòng nhạc đó”. Tôi cười, nhưng giọng cười đầy vẻ căng thẳng. Cảm giác như tiếng cười vang vọng vào bốn bức tường rồi quay trở lại với tôi.

“Thế Ever thì thích dòng nhạc nào?”. Mắt anh ta vẫn nhìn tôi, gương mặt đến là sáng.

Ngay khi tôi chuẩn bị trả lời thì thầy Robins bước vào. Hai má của ông ửng hồng, nhưng không phải vì đi nhanh như mọi người vẫn nghĩ.

Damen tựa lưng vào ghế của mình. Tôi định thần, hít một hơi thật sâu và hạ cái mũ trùm đầu xuống, chìm trong trạng thái quen thuộc ẩn chứa đầy những lo âu tuổi mới lớn: Nào căng thẳng vì các bài kiểm tra, nào băn khoăn về ngoại hình của mình, nào bức bối vì giấc mơ không thành của thầy Robin, nào bối rối khi biết rằng Stacia, Honor, Craig và mọi người trong lớp đang tự hỏi cái anh chàng quyến rũ Damen này thấy cái gì hay ho ở tôi...
 
NĂM

Lúc tôi đi đến chỗ bàn ăn trưa thì Haven và Miles đã ở đó. Nhưng vừa thấy Damen ngồi cạnh họ, tôi lập tức tự khuyên mình nên đi chỗ khác.

“Cậu cứ tự nhiên ngồi với bọn tớ, nhưng nhớ phải hứa là không nhìn chằm chằm vào anh bạn mới này!”, Miles cười, nửa đùa nửa thật. “Nhìn chằm chằm kiểu ấy rất bất lịch sự. Có ai nói với cậu điều đó chưa?”.

Tôi trợn mắt ngồi xuống cạnh bên Miles, lòng chỉ ước gì cậu bạn của mình... nói ít đi một chút.

“Tớ được nuôi bởi những con sói. Vì vậy, tớ quen kiểu nhìn chằm chằm bất-lịch-sự ấy rồi!”. Tôi ra vẻ tự nhiên, cố gắng không chú tâm đến sự có mặt của Damen và loay hoay mở hộp cơm trưa của mình.

“Tớ được nuôi bởi một người đàn ông chuyên cải trang thành phụ nữ và một tiểu thuyết gia lãng mạn”. Miles nói, chồm tới cướp mất hạt ngũ cốc ngào đường trên cái bánh nướng của Haven.

Haven cũng bật cười. “Tớ, ngược lại, được nuôi bởi các mụ phù thủy. Tớ là công chúa ma cà rồng xinh đẹp, được yêu, được kính trọng, được ngưỡng mộ. Tớ sống trong một lâu đài xa hoa lộng lẫy, và tớ không biết sẽ kết thúc thế nào...”.

Trong một tích tắc, cô liếc nhìn Damen và mỉm cười: “Còn anh?”.

Anh thong thả hớp một ngụm thức uống - một chất lỏng màu đỏ óng ánh trong chiếc ly thủy tinh, rồi nhìn cả ba chúng tôi: “Tôi lớn lên ở Ý, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bỉ, New York, New Orleans, Oregon, Ấn Độ, New Mexico, Ai Cập, và một số nơi nữa...”, anh cười.

“Vậy anh là con nhà lính phải không?”, Haven tò mò hỏi, trong lúc nhặt hạt ngũ cốc bỏ qua cho Miles.

“Ever đã từng sống ở Oregon đấy!”. Miles nói, cắn nhẹ hạt ngũ cốc trước khi nhấp thêm một ngụm nước khoáng.

Damen cười, mắt nhìn tôi. “Ở đâu?”.

Eugene”, tôi lầm bầm, cố tập trung vào miếng sandwich chứ không phải anh ta, bởi vì cũng giống như trong lớp học, mỗi lần Damen nói thì y như rằng tôi chỉ nghe được tiếng của anh mà thôi.

Mỗi khi đôi mắt chúng tôi gặp nhau, tôi lại có cảm giác ấm áp.

Mỗi khi chân của anh - không hiểu vô tình hay cố ý - giẫm nhẹ lên chân tôi thì cả người tôi như điện giật.

Và thật sự là tôi đê mê trong một thứ cảm xúc mới mẻ này.

“Sao Ever rời bỏ nơi đó?”. Anh ta làm một động tác chuyển động, gần như chồm người tới tôi.

Tôi nhìn chằm chằm xuống bàn, mím chặt môi như một thói quen mỗi khi bối rối. Tôi không muốn nói về cuộc sống ngày xưa của mình. Tôi không thấy có lý do gì để kể về những câu chuyện đau đớn trong quá khứ. Làm sao tôi có thể giải thích rằng cả gia đình tôi đã chết, còn tôi thì phải gắng gượng để sống tiếp như thế này.

Tôi xé một mẩu nhỏ cái bánh sandwich và thì thầm: “Đó là một câu chuyện dài”.

Chỉ thế thôi.

Nhưng tôi có thể cảm thấy cái nhìn chằm chằm của Damen, nồng ấm và thấu hiểu, gần gũi và chia sẻ. Điều đó làm tôi bối rối đến nỗi bàn tay tôi bắt đầu đổ mồ hôi và chai nước đang cầm bị vuột khỏi tay.

Nó rơi xuống rất nhanh, tôi không thể chụp lại kịp. Trong một tích tắc, tôi biết tất cả những việc tôi có thể làm là chờ cho nước văng tung tóe lên.

Nhưng trước khi chai nước rơi xuống bàn thì Damen đã ra tay bắt kịp và trả nó lại cho tôi. Và tôi ngồi ở đó, nhìn chằm chằm vào chai nước để tránh cái nhìn của anh, tự hỏi liệu có phải chỉ một mình tôi thấy anh ra tay rất nhanh, nhanh như điện vậy?

Sau đó Miles hỏi về New York. Haven thì nhích người ngồi rất gần Damen. Còn tôi, tôi hít một hơi dài, hoàn tất bữa trưa, cố thuyết phục mình rằng tất cả những chuyện vừa rồi chỉ là do tôi tưởng tượng ra mà thôi.

Khi tiếng chuông vang lên, chúng tôi chộp vội đồ đạc của mình và đi thẳng vào lớp. Bắt lấy cơ hội Damen đi trước, tôi quay sang Miles thì thào: “Làm sao mà cậu mời được anh ấy ngồi chung bàn ăn trưa?”.

Miles nhún vai, bỏ vỏ chai nước vào thùng rác và dẫn đầu cả nhóm hướng về các dãy phòng học. “Không có gì đâu! Anh ấy chủ động mà!”.

Tôi có cảm giác mình vẫn chưa hài lòng với câu trả lời. Nghe có vẻ buồn cười và quá nhạy cảm, nhưng trong đầu tôi cứ vang lên câu hỏi: Tại sao người như Damen lại đi với bọn mình?

Thật tình, có quá nhiều người trong trường, có nhiều nhóm sành điệu phù hợp mà anh ấy có thể tham gia, vậy tại sao anh ấy lại chọn ngồi chung với nhóm chúng tôi, ba đứa lập dị nhất?

“Thư giãn nào, chắc anh ấy nghĩ bọn mình thú vị và vui vui”. Miles nhún vai. “Hơn nữa, anh ấy nói sẽ đến nhà cậu tối nay. Tớ bảo anh ấy đến vào khoảng tám giờ!”.

“Cậu nói cái gì?”. Tôi gần như trợn mắt nhìn cậu bạn của mình, bất ngờ nhớ lại trong suốt bữa trưa Haven toàn lo chuyện sẽ mặc gì, trong khi Miles lo không biết có đủ thời gian để nhuộm da rám nắng. Giờ thì đã biết tại sao!

“Rõ ràng Damen cũng không thích bóng đá. Bọn tớ vô tình biết được điều đó trong cuộc trò chuyện với anh ta, vừa ngay lúc trước khi cậu đến”. Haven cười, khẽ nhún đầu gối. “Và bởi vì anh ta còn mới, chưa biết những người khác, nên bọn tớ tính giữ anh ấy cho riêng nhóm chúng ta, không cho anh ấy cơ hội làm bạn với những người khác”.

“Nhưng...”. Tôi chặn câu nói của Haven lại mà không biết nói gì tiếp. Tất cả những điều tôi đang nghĩ là tôi không muốn Damen đến nhà.

Không phải là tối nay.

Và không! Mãi mãi!

“Tớ sẽ đến sau tám giờ một chút”, Haven nói. “Cuộc họp của tớ sẽ kết thúc lúc bảy giờ, vừa đủ giờ để về nhà và thay đồ. , nhân tiện, tớ giành chỗ ngồi kế Damen ở hồ bơi nhé!”.

“Cậu không thể làm như thế được!”, Miles nói, lắc đầu lia lịa. “Tớ không chấp nhận!”.

Nhưng cô bạn đã làm động tác vẫy chào trong khi đi nhanh về lớp. Tôi quay sang Miles: “Cuộc họp nào hôm nay thế?”.

Miles mở cửa lớp, phá lên cười: “Thứ sáu là buổi họp dành cho mấy người ăn nhiều. Nhớ không?”.

Thế đấy. Haven là mẫu người nghiện tụ tập nhóm. Trong thời gian ngắn tôi biết cô ấy, cô bạn đã tham gia rất nhiều cuộc họp dành cho người nghiện rượu, nghiện ma túy, người đồng cảnh ngộ, người mắc nợ, con bạc, người nghiện thế giới mạng, người nghiện thuốc lá, người bị ám ảnh sợ hãi, người thích nói tục...

Theo những gì tôi biết thì hôm nay là ngày họp đầu tiên của nhóm những người ăn nhiều. Cao một mét năm mươi lăm, thân hình mảnh khảnh mềm mại như diễn viên múa ba lê, Haven chắc chắn không phải là người ăn quá nhiều. Cô bạn cũng không phải là người nghiện rượu, người thiếu nợ, người nghiện chơi bài, hay bất cứ cái gì đã nêu ở trên. Cô ấy chỉ không được bố mẹ dành cho nhiều sự quan tâm. Và vì thế, Haven tìm kiếm tình cảm cũng như sự chấp nhận mình ở bất kỳ nơi đâu.

Haven học được rằng cách nhanh nhất để nổi bật trong cái thành phố đầy những cô gái tóc vàng này là ăn mặc như Công chúa Bóng đêm.

Nhưng điều đó không mang lại kết quả như cô ấy mong muốn.

Lần đầu tiên mẹ Haven thấy con gái ăn mặc như thế, bà chỉ thở dài, chộp lấy chìa khóa của con, và đi thẳng đến phòng tập thể dục. Bố Haven thì không ở nhà đủ lâu để ngắm nhìn. Đứa em trai, Austin, hoảng sợ chút ít, nhưng nó cũng làm quen nhanh chóng. Và kể từ khi hầu hết mọi người trong trường quen dần với những màn trình diễn thái quá của chương trình MTV, thì bọn họ cũng lơ Haven luôn.

Một cách ngẫu nhiên, tôi vô tình biết được bên dưới của những trang sức đầu lâu, những đôi giày đinh, những cung cách trang điểm theo kiểu rock nặng là một cô gái chỉ muốn được nhìn thấy, được nghe, được yêu, được quan tâm như những người bình thường khác. Đó là điều mà trước đây Haven đã không có được. Tôi thấu cảm điều đó. Thật sự, nếu đứng trước một căn phòng đầy người, kể một vài chuyện về những ngày đấu tranh với nỗi khổ đau của mình làm cho cô bạn cảm thấy quan trọng, thì có gì xấu đâu cơ chứ.

Ngày xưa tôi chẳng bao giờ giao du với những người như Miles và Haven.

Tôi không có chút liên hệ dù mong manh nhất nào với những đứa trẻ có vấn đề gia đình, những đứa trẻ không bình thường, hay những đứa trẻ mà ai cũng chế nhạo.

Tôi thuộc về đám đông nổi tiếng. Ở đó, đa số chúng tôi đều dễ thương, khỏe mạnh, thông minh, tài giỏi, xuất thân trong gia đình giàu có, được mọi người yêu thích và trọng vọng. Tôi đến trường múa và có một người bạn thân nhất tên là Rachel (cũng là trưởng nhóm giống tôi). Tôi còn có cả bạn trai, Brandon, là đứa con trai thứ sáu mà tôi đã hôn (người đầu tiên là Lucas, hồi lớp sáu!). Tôi không bao giờ chơi xấu những người không thuộc nhóm mình, nhưng tôi cũng không chú ý đến họ. Những đứa trẻ đủ mọi vấn đề phức tạp kia chẳng có chuyện gì dính dáng đến tôi. Vì thế tôi hành động như thể họ vô hình vậy.

Nhưng bây giờ, tôi là cũng một trong những người bị-xem-là-vô-hình.

Tôi biết điều đó vào cái ngày Rachel và Brandon thăm tôi trong bệnh viện.

Bên ngoài, họ đối xử với tôi vẫn đầy vẻ ân cần. Nhưng bên trong, những suy nghĩ của họ hoàn toàn khác.

Họ hoảng sợ khi nhìn cái bịch ny-lông đang nhỏ những giọt chất lỏng vào tĩnh mạch của tôi. Họ ghê ghê khi nhìn những vết cắt thâm tím, nhìn cái băng bột trên chân tay tôi. Họ buồn với những chuyện đã xảy ra, với tất cả những điều tôi đã mất đi, nhưng họ cố tình không nhìn vào vết sẹo màu đỏ trên trán tôi. Điều mà họ thật sự muốn làm là “thoát” khỏi cái bệnh viện và đứa bạn thương tật cùng mình này càng nhanh càng tốt.

Tôi nghe thấy suy nghĩ của họ. Tôi nhìn thấy cả hai vầng hào quang bao quanh người họ quấn vào nhau, cùng chuyển sang màu nâu sẫm, để biết rằng họ đã từ bỏ tôi và đang đến với nhau.

Vì thế, trong ngày đầu tiên của tôi ở ngôi trường mới này, thay vì tốn thời gian với những “lễ nghi” thường lệ để gia nhập vào những nhóm của Stacia và Honor, tôi đi thẳng đến Miles và Haven. Hai kẻ bị ruồng bỏ trong trường đã chấp nhận tình bạn của tôi mà không cần hỏi một câu nào. Mặc dù chúng tôi có ngoại hình trông khá khác nhau, nhưng sự thật là, tôi không biết sẽ làm gì nếu không có họ.

Có được tình bạn với họ là một trong những việc rất hiếm hoi mang đến cho tôi cảm giác vui vẻ với cuộc sống này. Có tình bạn với họ, tôi cảm thấy mình gần như bình thường trở lại.

Và đó chính là lý do tại sao tôi muốn cách xa Damen. Tôi hiểu sức mạnh của anh ấy. Sức mạnh của những luồng điện khi anh chạm vào tôi. Sức mạnh bắt cả thế giới này im lặng mỗi khi anh cất tiếng. Tất cả những điều đó là một sự cám dỗ nguy hiểm mà tôi không thể không đề phòng và ngăn cản chính mình.

Tôi sẽ không đánh liều để xúc phạm đến tình bạn của tôi với Haven hay Miles.

Tôi không thể đánh liều để đến quá gần anh!
 
SÁU

Mặc dù Damen và tôi cùng học chung hai môn, nhưng chỉ có môn tiếng Anh là chúng tôi ngồi cạnh nhau. Hết giờ học Mỹ thuật, Damen chạy đuổi theo tôi, rồi vượt lên mở cửa cho tôi bước qua.

“Ever này...”, anh ngập ngừng đôi chút. “Haven và Miles nói tôi ghé chơi vào tối nay. Nhưng tiếc quá, tôi không đến được!”.

“Ồ!”. Tôi thốt lên theo một phản xạ tự nhiên và thấy hối hận vì âm thanh đầy vẻ vui sướng của mình ẩn chứa trong đó.

“Anh có chắc không vậy?”, tôi cố phát âm mềm mỏng hơn, thoải mái hơn, giống như là tôi thật sự muốn anh ghé chơi mặc dù giờ đó là quá trễ.

Damen nhìn tôi. Đôi mắt long lanh quyến rũ và mời gọi. “Vâng... Chắc! Hẹn gặp lại Ever vào thứ hai nhé!”. Anh nói và sải bước đến bên chiếc xe. Tiếng động cơ kêu rền mạnh mẽ.

Khi tôi đến được chỗ chiếc Miata của mình, Miles đang đứng chờ, tay khoanh trước ngực, mắt nhíu lại, sự buồn buồn thất vọng thể hiện rõ trong nụ cười ngơ ngẩn.

“Tốt hơn là cậu hãy nói cho tớ biết chuyện gì xảy ra? Hình như có chuyện không tốt thì phải?”, Miles bước vào xe trong khi tôi bận bịu mở cánh cửa phía bên tôi.

“Damen hủy cuộc gặp rồi. Anh ấy nói không thể đến được!”. Tôi nhún vai, liếc nhìn qua kính chiếu hậu để lùi xe.

“Nhưng cậu đã nói gì để anh ta hủy cuộc gặp?”, Miles nhìn tôi chằm chằm.

“Tớ đâu có nói gì”.

Lại một nụ cười ngơ ngẩn buồn và thất vọng. Lớn hơn.

“Thật tình tớ không hề muốn làm hỏng cuộc gặp đêm nay của các cậu”. Tôi lái xe khỏi bãi đậu, lao ra đường.

Khi cảm thấy Miles vẫn còn nhìn tôi chằm chằm, tôi lên tiếng phá tan bầu không khí yên lặng ngột ngạt: “Chuyện gì?”.

“Không có gì”.

Miles nhướng mày nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi có thể nghe thấy cậu ta đang nghĩ về chuyện gì, nhưng tôi vẫn lơ đi, tập trung lái xe.

Sau đó, Miles quay sang tôi: “Được rồi, hứa là cậu không nổi điên nhé!”.

Tôi nhắm mắt, thở dài. Sắp có chuyện đây.

“Chỉ là việc... Tớ không hiểu nổi cậu!”.

Tôi hít một hơi thật dài và từ chối phản ứng lại. Bởi vì phản ứng lại chỉ làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn mà thôi.

“Cậu xinh đẹp, ít nhất là tớ nghĩ như vậy. Tớ không hiểu sao lúc nào cậu cũng giấu mình trong cái áo khoác với mũ trùm đầu kín mít, xấu xí đó. Tớ xin lỗi, nhưng Ever... Toàn bộ ấn tượng về cậu toàn là u buồn bi thương, giống như sự khốn khổ cùng cực của những kẻ vô gia cư vậy. Tớ không muốn là người moi móc cậu, song việc cậu tránh một chàng trai quyến rũ như Damen để ý đến cậu, là điều thật lạ lùng!”.

Miles dừng lại đủ lâu và nhìn tôi đầy vẻ khuyến khích trong khi tôi cố đoán xem chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.

“Trừ khi... Cậu là người đồng tính!”.

Tôi quẹo sang phải và thở hắt ra. Cảm ơn năng lực siêu linh trong tôi đã giúp làm giảm đi cú sốc.

“Bởi vì nếu cậu là người đồng tính thì mọi chuyện vẫn tốt đẹp thôi”, cậu bạn tiếp tục. “Tớ cũng là người đồng tính này, nên tớ chẳng phân biệt đối xử với cậu, đúng không?”.

Cả hai chúng tôi cùng cười phá lên, thoải mái, như hai đứa con gái đang tâm sự điều bí mật với nhau.

Nhưng tôi lắc đầu và đạp thắng. “Cảm ơn cậu đã quan tâm đến tớ. Nhưng tớ không quan tâm đến Damen thì không có nghĩa tớ là người đồng tính. Có nhiều thứ quyến rũ khác chứ không chỉ ngoại hình, cậu biết mà!”.

Ừ, có nhiều thứ khác... Giống như những cái va chạm rộn ràng, giống như cặp mắt sâu hừng hực sức sống, và chất giọng làm say đắm lòng người, đủ sức làm im lặng cả thế giới...

“Hay là tại vì Haven?”, Miles ngẫm nghĩ một lúc lâu rồi ngây thơ hỏi tiếp.

“Không!”. Tôi nắm chặt vô-lăng, mắt nhìn chằm chằm vào đèn giao thông, lòng thắc thỏm trông chờ nó chuyển từ màu đỏ sang màu xanh để tôi có thể thả Miles xuống và kết thúc câu chuyện ở đây.

Nhưng Miles vẫn liến thoắng. “Ê! Tớ biết rồi! Là bởi vì Haven... Bởi vì cô ấy đã tuyên bố xí phần trong cuộc đua giành tình cảm của Damen. Tớ không thể tin được cậu thật sự tôn trọng cái chuyện xí phần trẻ con đó! Cậu từ bỏ cơ hội được bên cạnh anh chàng nóng bỏng nhất trường, có thể là nhất thế giới, tất cả chỉ bởi vì Haven tuyên bố xí phần?”.

“Cậu nói nghe buồn cười quá!”. Tôi lầm bầm, lắc đầu quầy quậy trong khi quẹo vô con đường vào nhà Miles và đậu lại.

“Sao?”. Cậu bạn cười, rõ là rất vui vẻ vì điều mình mới khám phá. “Cậu không chịu trả lời tớ à?”.

Tôi trợn tròn mắt, bật cười.

Miles đứng im nhìn tôi một hồi, rồi chộp lấy mấy cuốn sách và đi vào nhà. Trước khi đi còn lẩm bẩm để tôi nghe được: “Tớ hi vọng Haven đánh giá cao một người bạn như cậu”.

Rốt cuộc buổi tối thứ sáu đó bị hủy bỏ. Không chỉ bỏ một buổi tối mà là bỏ cả kế hoạch của chúng tôi. Một phần bởi vì đứa em trai của Haven - Austin - bị bệnh và cô là người duy nhất chăm sóc cho cậu em trai. Một phần vì ông bố yêu thể thao của Miles kéo cậu ta đến một trận đấu bóng và còn ép cậu ta mặc đồng phục của đội bóng như một cổ động viên cuồng nhiệt. Và ngay sau khi cô Sabine biết tôi ở nhà một mình, cô nghỉ việc về sớm để đưa tôi đi ăn bữa tối.

Biết rằng cô Sabine không tán thành sở thích mặc áo khoác với mũ trùm đầu và quần jeans, lại cũng muốn làm vui lòng cô sau những việc cô đã làm, tôi diện một cái áo đầm khá đẹp màu xanh mà cô ấy vừa mua cho tôi, mang giày cao gót, tô bóng đôi môi (“di vật” còn lại từ cuộc sống trước đây của tôi, lúc tôi toàn quan tâm đến những chuyện như vậy), chuyển từ cái ba lô cố hữu sang cái ví nhỏ cầm tay hợp với bộ váy, và mái tóc đuôi ngựa thường ngày được thả ra thành mái tóc xõa bồng bềnh tự nhiên.

Khi tôi chuẩn bị đi ra cửa thì Riley xuất hiện ngay phía sau lưng tôi, thích thú: “Chị bắt đầu ăn mặc giống như con gái rồi đó!”.

Tôi muốn nổi da gà.

“Trời đất ơi, Riley... Em làm chị hết hồn!”. Tôi thì thào trong lúc đóng cửa lại để cô Sabine không nghe thấy.

“Em biết”, con bé cười. “Mà chị đi đâu vậy?”.

“Một cái nhà hàng nào đó tên Stonehill Tavern. Nó ở trong khách sạn St. Regis!”. Tôi nói mà tim vẫn còn đập thình thịch.

Con bé nhướng mày, gật đầu. “Em biết rồi!”.

“Làm sao em biết?”, tôi nhìn chăm chăm vào con bé, tự hỏi không biết nó có đến chỗ đó chưa.

“Em biết nhiều chuyện lắm!”, nó cười. “Nhiều hơn chị luôn”.

Nó nhảy lên giường tôi và xếp lại mấy cái gối trước khi dựa người vào.

“Ừ, chị thì đâu có biết nhiều!”. Tôi lẩm bẩm, hơi khó chịu khi thấy nó ăn mặc và mang giày giống y chang như tôi. Con bé nhỏ hơn tôi hơn bốn tuổi nhưng chỉ thấp hơn tôi một chút xíu. Trông nó thật chải chuốt.

“Thật tình chị nên mặc như thế này thường xuyên hơn. Em không thích góp ý để chị bực mình đâu, nhưng thường ngày chị ăn mặc không hợp với xì-tai của chị tí nào. Chẳng lẽ chị nghĩ Bradon sẽ đến với chị nếu chị ăn mặc như vậy?”.

Con bé bắt chéo chân nhìn tôi, dáng điệu của nó thư thả như một người đang trong tâm trạng thoải mái nhất. “Chị có biết hiện giờ anh ta đang hẹn hò với Rachel không? Vâng, họ đã quen nhau năm tháng rồi. Có vẻ như còn lâu hơn chị hả?”.

Tôi mím chặt môi và ghìm chặt chân xuống nền nhà, lặp lại câu thần chú quen thuộc: Đừng để nó ảnh hưởng đến mình. Đừng để nó...

“Chúa ơi, chị sẽ không bao giờ tin điều này đâu nhưng đó là sự thật! Hai người bọn họ trở về nhà sớm sau lớp học múa, họ đã có kế hoạch, nhưng sau đó...”, con bé dừng lại và cười. “Em biết em không nên nói điều này nhưng Brandon đã làm một việc rất đáng tiếc và rắc rối to rồi đấy. Phải chi có chị ở đó, nhưng em sẽ kể cho chị nghe, thật là vui. Anh ta còn nhớ chị và vô tình gọi tên chị trước mặt cô nàng kia một hay hai lần gì đó. Thật đấy! Nhưng như họ nói, cuộc sống vẫn tiếp tục, đúng không?”.

Tôi hít một hơi dài và nhíu mắt nhìn theo đứa em của mình thơ thẩn đi trên giường, trông cứ như một nữ hoàng, lên tiếng phê bình cuộc đời tôi, cách ăn mặc của tôi, hầu như tất cả mọi thứ về tôi, cập nhật thông tin cho tôi về những người bạn đã thành xưa cũ dù tôi không yêu cầu.

Tự nhiên, trong một khoảnh khắc, tôi cảm thấy khó chịu với cuộc viếng thăm bất ngờ của Riley. Nó giống như một cú đánh lén vậy. Tôi mong nó trả lại cho tôi sự bình yên và hãy để tôi sống với những gì còn lại trong cuộc đời nhếch nhác của tôi mà không cần những lời bình luận thô lỗ của nó. Tôi nhìn thẳng vào mắt nó: “Vậy khi nào em định vào trường thiên thần? Hay là họ đã không cho em vào vì em xấu tính quá?”.

Con bé chằm chằm nhìn tôi, mắt tóe lên những tia giận dữ trong khi cô Sabine bước lại gần cửa, gõ khẽ và gọi: “Xong chưa, Ever ơi?”.

Tôi nhìn Riley bằng ánh mắt thách nó dám làm điều gì ngốc nghếch. Làm đi để cho cô Sabine biết tất cả sự thật lạ lùng đang xảy ra trong này.

Nhưng nó chỉ cười và dịu dàng: “Bố mẹ gửi lời hỏi thăm chị”.

Rồi biến mất.

 
Other News