KỶ NIỆM XA XƯA NHấT CỦA TÔI về mẹ tôi là sự vắng mặt của bà. Cái ngôi nhà tường sơn trắng đứng im lìm. Mặt trời treo trên bầu trời xanh không một đám mây. Bên kia bãi cỏ màu xanh là con đường, bên kia con đường là cánh đồng lớn đầy gốc rạ đã cày xới. Không một dây giăng hay hàng rào, cũng không một mương rãnh nào phân cách chúng. Về sau này, dãy cỏ bị xén gợi cho tôi nhớ lại thung lũng San Joaquin, vùng đất trũng sâu nơi có nhiều trang trại, đổ dốc xuống phía sau California giống như chỗ hõm nơi xương sống của người đàn ông đang nằm.
Tôi không phải là một em bé, mặc dù tôi chỉ mới lớn lên thành một thằng nhóc. Phải có người chăm sóc cho tôi. Tuy nhiên sự việc không phải như thế. Nếu như ai bảo tôi nói tại sao tôi lại ở đây, tôi không nhớ. Tôi chỉ nhớ rằng tôi đành phải chờ đợi.
Nếu như tôi đã trả lời những câu hỏi như thế tại trường, nếu như tôi nói ra sự thật và chân thực như lòng tôi mong muốn, tôi phải nói gì đây? Tôi bắt đầu từ đâu? Mọi điều nên bắt đầu từ mẹ tôi.
Mẹ lớn lên tại đồng bằng phía đông
Gia đình của mẹ tôi nối tiếp từ những trang trại “đất đai khô cằn” dưới bóng của đỉnh núi, nơi đây sự sống tùy thuộc vào những trận mưa ngắn hạn và sự thông minh kiên cường của con người. Gia đình tôi khá giả nhất là khi ông cố ngoại tôi nhận được một mảnh đất cằn cỗi mà sau đó ông để gia tài cho bà ngoại tôi, Katherine Reese. Bà tôi kết hôn với một người đàn ông lớn hơn bà một thế hệ, rồi ông tử trận vào Thế chiến Thứ nhất. Ông để lại cho bà hai đứa con: mẹ tôi, lúc này vừa tròn sáu tuổi, và cậu tôi khoảng ba tuổi. Cơ quan phúc lợi trẻ em tại địa phương đề nghị đưa bọn trẻ vào trại trẻ. Trong thất vọng, bà lập gia đình lần thứ hai với một người đàn ông, ông này ngay sau đó bán miếng đất của bà để đầu tư vào dầu hỏa. Khi việc làm ăn thất bại, người chồng thứ hai của bà Katherine rời bỏ gia đình. Bà ngoại tôi đã hai lần sai lầm trong cuộc đời, điều đó mang đến cho bà đau khổ nhiều hơn là hạnh phúc. Con gái và con trai của bà ra vào trại trẻ trong khi bà đã làm hết sức mình để giữ cho được tuổi thơ của hai con.
Khi mẹ tôi, Hope, được mười sáu tuổi, mẹ gặp Wade – một người lính hai mươi mốt tuổi đóng quân ở một trong những căn cứ quân sự gần đó. Theo lời của bà Katherine, Wade là một người đàn ông thô bạo, yêu mẹ tôi một cách ích kỷ. Mặc dù trái với ý bà, Mẹ vẫn giao du với Wade gần một năm. Mẹ bỏ học vào giữa năm lớp Mười. Sau cùng, với một hành vi đầy thách thức, Mẹ thành hôn với Wade tại phòng đăng ký kết hôn của thị trấn, một tuần sau khi mẹ được mười bảy tuổi.
Sau khi giải ngũ, Wade thuyết phục mẹ tôi rằng họ có thể đi khắp thế giới với chiếc xe Chevrolet có kéo toa xe phía sau. Hai người rời Colorado, trong nhiều tháng họ đi du lịch bụi nhiều nơi trong nước Mỹ. Khi đến Missouri, họ gọi cho bà Katherine để báo tin tôi đã ra đời, một baby có mái tóc vàng hoe có vẻ giống Wade hơn là giống mẹ. Họ nói rất vui và ở lại nơi nào mà họ thích, ban đầu họ dùng số tiền tiết kiệm mà bà Katherine cho, sau đó là những tờ séc giả. Khi đến
Giống như bà ngoại Katherine trước kia, mẹ Hope đã chọn lầm người. Sau khi ra khỏi nhà tù, Mẹ định cư tại
Qua kinh nghiệm của bà ngoại, mẹ tôi hiểu rằng người phụ nữ có thể dễ dàng mất con như thế nào. Mẹ đồng ý với điều kiện của Wade, và ngược lại, Cha từ bỏ mọi yêu sách liên quan đến tôi. Thế là mẹ tôi giữ lấy đứa con mình yêu thương và tách khỏi người đàn ông mà mình khinh bỉ. Tuy nhiên ngay khi Wade đã ra đi, mẹ tôi vẫn luôn lo sợ mất tôi. “Con hãy coi chừng,” Mẹ dặn tôi. “Có thể có người đến bắt con đi.”
“Đã đến giờ dọn dẹp gọn đồ đạc,” bà Gordie gọi to át cả tiếng ồn của chiếc tivi nằm đầu kia phòng khách. Nằm trên sàn nhà gần ghế xô-pha, tôi ngước nhìn lên, nhận ra gian phòng đã tối sầm. “Bà cháu bảo bà sẽ đến đây lúc sáu giờ mười lăm. Cháu không định cho bà chờ đấy chứ?” Trên đầu gối của tôi là món đồ chơi LEGO mà bà Gordie và chồng đã tặng tôi như là món quà sớm nhân dịp lễ Giáng sinh và một số khủng long bằng plastic, ngang bụng có mang nhãn hiệu SINCLAIR OIL – thứ mà bà Kate của tôi thường để trong túi xách của bà và lôi ra cho tôi mỗi khi bà đi làm về.
Dáng bà Gordie xuất hiện trên lối vào nhà bếp, “Nào, nhanh lên cháu yêu.” Bà nhìn đồng hồ để trên nóc tivi. “Bà cháu đến ngay bây giờ. Cho đồ đạc vào ba lô đi. Học mẫu giáo có nghĩa học chơi, đúng không?” Bà chỉ tay đến chỗ mớ viết chì bị gặm nham nhở và các chữ cái in rô-nê-ô mà tôi đã lôi ra và quăng bừa bãi bên cạnh cửa ra vào. Tôi rùn vai trước cái đám lộn xộn và nhìn bà Gordie biến trở lại trong nhà bếp, để cho chồng ở lại trông chừng tôi. “Tháng Hai sắp tới là sinh nhật cháu. Sáu tuổi có nghĩa cháu đã lớn rồi đấy. Một trong những đứa lớn nhất lớp.” Bên kia cửa bà Gordie la to trong khi tôi bắt đầu miễn cưỡng tháo rời từng bộ phận bộ đồ chơi LEGO. Do biết tôi quá nên bà la to một lần nữa để hối thúc tôi. “Nhưng đến trước ngày sinh nhật của cháu, cháu cũng biết, có thể còn những món quà khác cho ngày lễ Giáng sinh.”
Gia đình Gordie sống bên kia đường nhà bà tôi, nếu như tôi nhớ không lầm. Mỗi buổi xế trưa, khi xe buýt của trường thả tôi xuống cuối khu nhà, bà hoặc ông Gordie – đôi khi cả hai – luôn đứng sẵn ở đấy, kiên nhẫn chờ đợi tôi.
Ông Gordie nghiêng mình khỏi ghế xô-pha để xem tôi có làm theo lời vợ ông nói hay không. Dưới chân tôi, bức tường đồ chơi LEGO đã được tháo rời, những viên gạch của nó bị gỡ ra thành mảnh nhỏ có thể xếp gọn vào hộp giày đặt ở phòng treo áo khoác cạnh cửa ra vào. Những con khủng long kích thước bằng cái túi áo vẫn còn nguyên. Tôi lén liếc nhìn ông Gordie, ông vẫn theo dõi sự chú tâm của tôi... Một nụ cười lướt qua khuôn mặt của ông. Ông ngả người lên ghế xô-pha và mở tivi xem chương trình xế chiều.
“Cháu có muốn uống phần xô-đa còn lại không?” Ông ngước mắt nhìn lên và hỏi, vẫn ngồi yên trên ghế xô-pha. Bàn tay ông đưa lên khỏi tay dựa, lắc lắc cái chai RC COLA còn lại phân nửa đoạn đưa lên môi. Tôi nắm lấy, nhưng ông giật lại từ tay tôi. Tôi giật lại, thế là ông cười to. Khi tôi giật đến lần thứ ba, ông bỏ cuộc. “Đừng làm đổ nhé, nếu không cả hai chúng ta cùng bị trừng phạt đấy, ta có thể báo trước như thế.” Sau khi dùng hai tay nắm chắc chai xô-đa, tôi ghì mạnh đáy chai xuống tấm thảm dơ bẩn nằm giữa ghế xô-pha và tôi.
Căn hộ của chúng tôi tại
Bà tôi lắc lắc đầu, không né tránh trước câu hỏi tế nhị đó, bà trả lời nho nhỏ, “Tôi à, bốn mươi ba.”
Vào cuối những năm sáu mươi, khi bà tôi và tôi đến đây, sự phồn thịnh vùng phụ cận của
Cảnh đấu súng phim cao bồi miền Viễn Tây vào buổi xế chiều của ông Gordie đã đến hồi kết thúc. Lợi dụng cơ hội đó, tôi chạy ra trước cửa và thấy bà tôi đứng trước hiên nhà, một tay xách một túi hàng tạp phẩm, cái túi đựng tiền nằm lủng lẳng bên hông. Co ro vì lạnh, bà mặc chiếc áo khoác dày cộp mà bà đã mua của một phụ nữ tại nhà thờ, đôi bao tay màu sậm, chiếc mũ đan màu vàng nhỏ nằm trên mái tóc dày màu xám và đen. Bà là một phụ nữ trẻ hơn tuổi với đôi mắt đen cương nghị và những nếp nhăn trên trán, đặc biệt khi bà cau mày. Khi đi có tôi bên cạnh, người ta tưởng lầm bà là mẹ tôi. Nhưng mỗi lần như thế – mặc dù ở chỗ nào, người nào, hay hoàn cảnh nào – tôi cũng nhảy dựng lên đính chính sự sai lầm. “Đây không phải là mẹ tôi.” – Tôi giảng giải cho những người lạ thiếu hiểu biết. “Bà ấy là bà tôi,” sau đó tôi chỉ vào bà như để xác nhận đó là một sự thật hiển nhiên. “Bà lớn tuổi rồi.”
Vẫn đứng tại hiên nhà trong cái lạnh về đêm, bà nhìn vào căn hộ của gia đình Gordie, sau đó chỉnh lại túi hàng đồ khô. “Bà xin lỗi bà đã đến trễ.”
Vẫn ngồi trên ghế xô-pha, ông Gordie đưa một bàn tay lên để chào. “Chào cô, Katherine,” ông chào to, vang lên cả phòng, đoạn quay lại nhìn vào tivi.
“Cháu xem tivi đủ chưa?” Bà hỏi tôi.
Tôi mỉm cười. Không nói một lời, tôi lấy áo khoác và cặp đeo sau lưng nằm trên sàn nhà. Bà Gordie từ nhà bếp lại đi ra, bà tôi lại xin lỗi một lần nữa.
“Katherine, cô không muốn vào à?” bà Gordie hỏi, tay bà khoanh lại do cái lạnh của khung cửa mở.
“Ồ không, cháu nó mặc áo khoác xong ngay ấy mà.” Bà ngoại đưa mắt nhìn tôi hối thúc. “Chúng tôi thực sự cần phải về nhà. Tối mai có thể tôi sẽ ghé chơi.”
Bên ngoài, những đám mây của một trận mưa chiều bao phủ làm ấm không khí lên một ít. Bị tuyết ngăn chận và chôn lấp, xe ô tô của những người hàng xóm trông giống như những hóa thạch bằng kim loại chờ tuyết tan mùa Xuân phát hiện. Nắm chặt tay tôi, bà ngoại bước đều xuống các bậc thang lạnh cóng nơi hiên nhà ông bà Gordie. Chúng tôi đến một trong hai đống tuyết đông cứng phủ cao trên những con đường đi về nhà. Bà nâng cánh tay tôi lên để bước qua đụn tuyết. Vừa lên tới đỉnh, tôi giằng tay ra, chạy ra giữa đường, nhìn lại, vừa cười vừa chọc tức bà.
Bà đưa mắt nhìn sang trái, sang phải, đoạn dọc con đường giờ trông giống như một con kênh dài trắng xóa. Không một người hoặc một chiếc xe di chuyển trên đường. Bà nhướng cao chân mày và nhíu lại, gật gật đầu chấp nhận thách thức. Bà bỏ túi đựng tiền vào túi xách, rồi với một tay không vướng bận, bà chậm rãi nắm lấy một nắm tuyết kế bên mình. Tôi vội vàng quỳ xuống, khởi sự vo tròn một nắm tuyết. Bà ném ra một quả, cố tình không trúng, cách chỗ tôi vài inch. Vẫn đứng yên tại chỗ, tay không vũ khí, bà cười to. Tôi ném trả. Nhưng cú ném của tôi yếu, quả tuyết rơi gần tôi hơn gần bà. Bà cúi xuống nắm tròn quả thứ hai. Thấy thua, tôi bò qua đống tuyết đông cứng thứ hai nằm trên lề đường, đến dãy nhà nơi chúng tôi đang ở. Co mình sau những bậc thang, tay tôi đau nhức vì lạnh, tôi còn nghe tiếng tấn công dữ dội. Tôi lén nhìn qua tay vịn cầu thang. Bà xuất hiện trước mặt tôi, tuy kiệt sức, nhưng một tay bà xách túi đựng thức ăn, còn tay kia, bà xách cái cặp mà tôi đã bỏ lại trên đường, Không có quả đạn tuyết nào cả.
“Thôi nào, cháu cưng,” bà thở ra. “Đã đến lúc vào nhà.”
Giày bốt phủ đầy tuyết, chúng tôi mệt nhọc lao lên bốn dãy cầu thang, đi ngang qua những cánh cửa bảo vệ cẩn mật của những căn hộ láng giềng. Đặt túi thức ăn khô lên một bên đầu gối co lên, bà mò tìm cái túi đựng tiền và xâu chìa khóa, mở chốt cửa thứ nhất rồi cái thứ hai, đoạn đến cái nắm cửa, cái mà bà than phiền chẳng ra cái tích sự gì. Chúng tôi giậm giậm chân ngay bên ngoài cánh cửa mở, làm rơi tuyết đóng trên giày xuống tấm thảm trơ cả sợi ở hành lang.
Bà cười hỏi tôi. “Đủ tốt để ngăn ngừa lũ trộm, phải không?” Tôi gật đầu đồng ý. Bà bước vào trong, mở công tắc điện và đi vào trước.
Hai bà cháu tôi chen nhau bước vào tiền sảnh nhỏ của căn hộ. Bà tôi đóng nhanh cửa, khóa hai chốt cửa lại, sau đó vặn nắm cửa, rồi đưa các ngón tay sờ lên nắm cửa, tin chắc bà đã làm đúng. Sau khi choàng qua cửa sợi dây xích, bà nhìn lại lần cuối công trình bảo vệ an toàn và sau khi tin chắc mọi việc cần làm đã làm, bà mới trở vào căn hộ lạnh lẽo, không đèn đóm. Bà bước tới trước và tôi đi theo sau. Bà bỏ cái cặp tôi xuống, tôi đưa hai tay chụp lấy. Tôi đứng chờ bà tại căn phòng tối đen của mình, nhìn bà đi ngang qua để lại sau lưng một dòng ánh sáng. Sau đó, mỗi căn phòng đều sáng ánh đèn, tôi bèn vặn đèn phòng tôi.
Tôi ném cặp vào ngăn kéo của giường ngủ, làm xáo tung đống sách mà bà mua cho tôi theo catalô và chúng được mang đến vào mỗi đầu tháng dựa theo địa chỉ của tôi. Như mọi ngày, mỗi sáng bà dọn dẹp giường, và vào chiều tấm phủ giường vẫn thẳng băng. Tôi buông người nằm xuống, hai chân buông thõng bên cạnh giường, hai tai và mũi của tôi vẫn còn lạnh do đi bộ lâu trên đường. Mệt mỏi, trong các góc phòng dần tối của đêm đen, đầu óc của tôi dần dần trống rỗng.
Bên dưới hành lang, bà tôi để túi thực phẩm xuống bàn của nhà bếp, đoạn đi ngang qua nền nhà bằng gỗ để đến phòng khách, và giờ đang loay hoay với cái nút của lò sưởi.
“Andy, sau buổi ăn tối, cháu có muốn Bà đọc cho nghe vài đoạn trong Kinh Thánh mà cháu sẽ đọc vào ngày Chủ nhật không?” bà hét to từ bên kia tường, “Chúng ta có thể thực hành bài học mà thầy giáo đã chỉ định cho cháu.” Lò sưởi nổ lách tách và có hơi nước bốc lên. Bà quay trở lại bếp. “Điều đó chẳng tốt cho cháu sao?” Bước chân của bà dừng lại trên hành lang, dường như bà đang tháo đôi giày bốt ướt ra. “Cháu có nghe bà nói không? Bà hỏi nếu như...”
“Vâng, cháu nghe,” tôi cũng hét to để đáp trả. Bước chân nhè nhẹ của bà lại trở về nhà bếp. Tôi đứng dậy khỏi giường, lững thững đến cánh cửa sổ màu nâu đỏ có khí lạnh tràn vào. Tôi nhìn xuống con đường vắng, cách vài ngôi nhà bên dưới, một khung cửa hình chữ nhật màu xám có ánh đèn le lói của căn hộ nơi bà Gordie, sau khi nấu nướng xong, có lẽ đang ăn buổi tối cùng với chồng trước tivi.
“Andy, cháu có thể đến đây để giúp bà một tay không?” Tiếng bà vọng từ gian bếp đến phòng tôi. Tôi đưa mắt nhìn vào hướng cửa ra vào và các bức tường bao quanh. Các vết nứt dài, răn reo, sứt mẻ nằm khắp nơi trên những bức tường thạch cao. Tôi nghĩ đến chân của con nhện bệ vệ đong đưa trên các bức tường của phòng.
“Andy!” Bà lại kêu.
Tôi chạy vội ra hành lang, rồi xuống bếp. Bàn ăn đã dọn sẵn cho hai người.
“Cháu đói chưa, cháu yêu? Bà đã làm món spaghetti cho buổi tối,” bà khuấy đều cái nồi nhôm đặt trên lò. “Sao cháu không đem mấy cái lon rỗng quăng giúp cho bà?” Bà cầm cái muỗng đầy xúp chỉ vào mấy cái lon rỗng để trên bàn gần bà, sau đó là cái túi xách bằng giấy nằm ngay giữa phòng. Tôi đưa mắt nhìn cửa nhà bếp dẫn đến chỗ ban công, rồi lại nhìn bà. Bà tròn mắt, nói to, “Cháu ngoan, quăng ra ngoài kia. Tối hôm nay bà thật sự rất mệt.” Bà quay lại để khuấy tiếp. “Đi đi cháu, cháu ngoan, giúp bà chút coi!”
Tôi ném mạnh mấy cái lon vào túi xách và kéo lê lên trên sàn nhà, Ra đến cửa, tôi mở cửa, cái lạnh tràn vào và tôi bước ra ngoài. Xuyên qua cái ban công bằng gỗ, ánh sáng đèn nhà bếp chiếu le lói lên những khối nước đá lạnh cứng do tuyết tan đông đặc lại.
“Đừng quên đóng cửa nghe, cháu yêu,” từ bếp lò bà dặn với ra. “Cháu có nhớ chất đốt rất đắt tiền không?”
Với bàn tay còn rảnh, tôi kéo nhẹ nắm cửa về phía mình, cửa khẽ đóng lại.
Hàng tá giàn giáo đóng đinh lô nhô phía sau dãy nhà gần như giống nhau của vùng phụ cận. Tôi nhìn xuống con đường nhỏ và dài chia đôi khối nhà kế cận làm hai. Tiếng khóc nghèn nghẹn của một người phụ nữ – nghe như khá gần – vang dội lên các bức tường của hành lang có ánh sáng le lói, phá tan sự im lặng, và chấm dứt ngay khi có tiếng đóng cửa.
Một lò đốt rác có cửa sập đặt ngang tầm mắt của tôi, rộng hơn chiều ngang vai tôi, và đủ to để nuốt tôi vào đó. Rỉ sét đã ăn lan ra trước mặt và hai bản lề nặng nề giữ cho cánh cửa nhỏ còn tại vị. Trong cái nóng ẩm mùa hè
“Andy, ổn cả chứ?” tiếng bà xuyên qua cánh cửa.
“Vâng ạ,” tôi hét to trả lời, nắm lấy cái túi xách, ném xuống miệng lò. Mấy cái lon chạm vào thành gạch, kêu leng keng cho đến đáy lò, nơi ngọn lửa khủng khiếp đang chờ đợi. Hy vọng thấy ngọn lửa bùng lên, tôi nhảy lui nhưng tôi không thấy gì cả. Cái lưới mắt cáo lung lay dưới chân tôi, tôi chụp lấy thanh bảo vệ bằng gỗ.
“Andy!” bà tôi la to.
“Cháu về liền đây,” tôi cố hết sức đậy cái nắp lò bằng kim loại lại, sau đó chạy ngang qua ban công lạnh ngắt trở về nhà.
Bên cạnh bàn bếp ăn, bà dành cái ghế dựa cho tôi. Hai cái chén đầy spaghetti, chỗ tôi ngồi có để một ly sữa, chỗ bà một ly nước lạnh.
“Xem chân cháu kìa,” bà chỉ các dấu chân từ cửa vào đến bàn. Tôi tháo đôi giày đầy tuyết và cẩn thận đặt chúng bên lò cho mau khô.
Bà đẩy tôi vào bàn, xong bà mới vào chỗ của mình. Bà chắp tay ngay bên cạnh bàn và ra hiệu bảo tôi cũng làm y như thế. Thay mặt cho cả hai, bà cảm tạ Chúa về ngày hôm nay và công việc của mình, biết ơn Chúa đã ban cho spaghetti có trước mặt chúng tôi và cầu mong Người bảo vệ cho các con bà được an toàn – cậu Terry đang ở trong quân đội, người mà tôi chưa hề gặp, và mẹ tôi, cô con gái của bà ở California, người mà tôi luôn luôn nhớ đến. Sau đó, bà cầu Chúa luôn ban phước lành cho tôi trong tương lai.
Buồn chán, tôi ngước nhìn đôi mắt nhắm nghiền của bà.
Gần ngày sinh nhật lần thứ ba mươi của mình, bà đã góa chồng, rồi lại bị một ông chồng khác bỏ. Hope và con trai Terry cũng rời xa bà đã lâu. Chỉ còn lại Chúa và đứa cháu ngoại trong những bữa ăn tối. Nhìn bà trong im lặng, nếu như tôi hiểu bà cô đơn, ngay cả sợ hãi những gì đã đi qua trong cuộc đời bà, tôi cũng không biết làm gì khác hơn. Tôi chỉ mới có năm tuổi rưỡi. Bà là của tôi. Tôi là của bà. Đó là tất cả những gì tôi mong muốn.
Bà lầm thầm lời cầu nguyện cuối cùng, sau đó day qua, thấy tôi nhìn bà chăm chăm, bèn hỏi tôi có cầu nguyện gì thêm không.
“Thưa không,” tôi nhanh chóng trả lời, không muốn kéo dài thêm lời cầu nguyện của bà.
Bà lại nhắm mắt, nói lên lời cuối, “Amen.” Bà ngước mặt lên, cầm lấy nĩa, đoạn bắt đầu ăn.
Tôi không hề nghe tiếng gõ nhẹ tại cửa trước. Tiếng gõ nhẹ có thể không nghe thấy nếu như bà không bất thình lình đưa mắt nhìn lên và lắng nghe tiếng âm thanh buổi tối. Nghe tiếng gõ cửa lần thứ hai, bà uống vội một hớp nước trong ly của mình, đoạn đẩy cái ghế ra xa bàn, đứng dậy đi ra, tôi nối gót theo sau.
“Cháu yêu, ổn cả mà.” Bà đặt tay lên vai tôi, ra dấu cho tôi đứng yên. “Bà chỉ đi một phút.” Tôi nhìn bà đi ra hành lang.
Bà nhìn qua lỗ nhỏ ở cửa một vài giây. Hai tiếng tách tách của then cài bật lên vang khắp phòng. Cánh cửa kêu crắc một tiếng và mở ra, tiếng xích cửa kêu loảng xoảng
“Tôi rất tiếc đã làm phiền bà, bà Katherine” – Tôi nhận ra tiếng của ông chủ nhà – “nhưng có ai đó gọi điện thoại cho bà. Cô ta nói cô ta gọi từ
“Bà có muốn nghe không?” ông hỏi vọng qua khe hở giữa cửa và bức tường.
“Ồ, dĩ nhiên rồi. Cám ơn ông.” Bà đóng cửa, kéo sợi dây xích ra khỏi lỗ, rồi lại mở cửa. Ông ta bước lên cầu thang và trở lại căn hộ của mình để lấy cái điện thoại. Bà nhìn tôi, hy vọng.
Điện thoại vào buổi tối hiếm khi xảy ra. Hầu như các cao ốc trong khối không có dây điện thoại, ngoại trừ vài người trong số láng giềng của tôi chi thêm một số tiền để gắn điện thoại cho căn hộ của mình, đồng ý trả tiền phục vụ tháng – như bà tôi đã cho biết – dù có xài điện thoại hay không. Bà tôi thì không làm như vậy. Ông bà Gordie có điện thoại, và những buổi sáng khi tôi bị bệnh hay bà có việc phải đi làm trễ, bà qua nhà Gordie để gọi nhờ đến trường hoặc đến ông chủ tại Sinclair. Nếu như ông bà Gordie không có nhà hoặc còn quá sớm, bà chạy đến điện thoại công cộng ở góc đường – trong túi áo chuẩn bị sẵn đồng mười xu. Ông và bà chủ nhà tình nguyện giúp chúng tôi gọi và nhận điện thoại, bằng cách mua một sợi dây điện thoại thật dài đủ để kéo từ căn hộ của vợ chồng ông đến cửa căn hộ chúng tôi.
Chủ nhà lại xuất hiện tại hành lang, tay cầm điện thoại và ống nghe. “Vợ tôi nghĩ đó là con gái của bà. Tôi có thể để nó tại đây?” Ông cúi xuống và đặt điện thoại xuống sàn nhà. “Cám ơn. Cho tôi gửi lời cám ơn bà nhà.” Bà tôi bước vội tới, biết rằng mỗi phút gọi điện thoại rất tốn tiền.
“Không có chi, bà Katherine. Chỉ có điều dùng xong thì xin bà mang lên giúp cho.” Chủ nhà nói, và sau khi nhận thấy tôi đứng ngay sau khung cửa. “Andy, cháu thích đến trường không? Xe buýt mới đưa học sinh chạy có tốt không?”
Tôi toét miệng cười háo hức.
“Thế là tốt.” Ông nhìn bà tôi, một nụ cười nóng ruột hiện lên trên gương mặt bà. “Andy là một cậu bé ngoan, phải không?”
Bà gật đầu.
“Tốt, đừng lo nghĩ gì về thời gian. Chúng tôi không đi ngủ sớm đâu.”
“Cám ơn ông.” Bà ngồi lên bậc cầu thang, chờ cho ông chủ đi lên tầng trên. Bà lấy ống nghe từ dưới chân, đưa lên nghe. Ở tầng trên, có tiếng cửa phòng của chủ nhà đóng lại. Bà chờ thêm một giây lát, tin chắc hành lang không còn ai.
“A lô, Hope à?” bà hỏi, “cháu vẫn khỏe”. Bà đưa mắt nhìn lên thang lầu. Tôi mỉm cười tươi. “Không, thời tiết không quá lạnh.” Bà dừng lời. “Sao? Mẹ không nghe con nói.” Bà nhìn máy điện thoại nằm dưới chân mình. “Mẹ không chắc...” Bà cau mày nhìn tôi, ra dấu bảo tôi vào nhà.
Tôi rút vào sau khung cửa. “Sao? Giờ mới được nửa niên học. Mẹ có cảm tưởng vừa mới ghi danh cho cháu. Ngày nghỉ ở trường chưa tới -” Bà dừng lời một lúc lâu hơn.“Con không thể chờ cho đến cuối – “Giọng bà to hơn, “mẹ hiểu, nó là con của con. Dĩ nhiên là con có mọi thứ quyền...” Bà ngưng lại, đoạn lại thử cố gắng. “Như mẹ vừa nói nó là một đứa bé.”
Tôi bò ra khỏi cửa, không để bà trông thấy. Giọng bà dịu lại, “Hope, con yêu, mẹ không chắc con đã sẵn sàng để -” Tiếng người gọi tới cắt ngang lời bà. Bà nóng nảy lắng nghe, thình lình bực dọc nói, “Có phải có Wade ở đó không? Chính nó bảo con làm như thế, phải không?” giọng nói của người gọi tới to hơn cho đến khi bà tôi ngắt lời, “Mẹ xin lỗi... Mẹ biết con không cần hắn... Mẹ cho rằng con không bao giờ làm thế... Được, mẹ nghĩ cho cháu đi là tốt hơn.”
Bà lại nhìn lên. Tôi cho rằng bà sẽ giận dữ, lại ra lệnh cho tôi trở vào nhà. Thay vì thế, bà lãnh đạm nhìn tôi, trông dường như bà không còn nghe tiếng điện thoại.
Tôi nhìn lại bà. “Bà ngoại ơi, bà có muốn cháu nói chuyện với mẹ không?”