NXBT: Người con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy, có tên là Septimus Heap, ngay khi sinh ra đã bị bà đỡ ăn cắp mất và báo là đã chết. Vào cùng đêm đó, cha của cậu là Silas Heap đi ngang qua rừng cây và thấy trong tuyết có một bọc đựng một bé gái mới sinh mang cặp mắt vào tím. Ông Heap mang bé gái đó về nhà, đặt tên là Jenna, nuôi nấng và yêu thương như con gái mình.
Bé gái bí mật đó là ai? Và chuyện gì xảy ra với cậu bé sơ sinh bị đánh cắp? Tập đầu tiên của bộ sách hấp dẫn này được Angie Sage dẫn dắt một cách kỳ ảo và hài hước, với đầy những nhân vật thần bí lạ lùng và hấp dẫn, những độc dược, những câu thần chú chưa từng thấy, những thân phận bí ẩn, những câu chuyện bất ngờ vào phút chót. Mời bạn đọc trích đoạn sách với kỳ 4:
Bà Marcia Overstrand |
Bà Marcia Overstrand sải bước ra khỏi phòng ngủ trên tầng tháp cao ngất của mình để đi vào phòng để quần áo ngay bên cạnh, mở tung cánh cửa màu tía nặng nề dẫn lên chiếu nghỉ và soi bóng mình vào chiếc gương điều chỉnh.
“Bớt tám phẩy ba phần trăm!” Bà ra chỉ thị cho chiếc gương, mà sáng nào cũng líu ríu và kinh hãi chọn tư thế sẵn sàng nghinh đón khi cánh cửa của bà Marcia mở toang ra. Suốt bao nhiêu năm ròng, chiếc gương luôn đọc được tiếng những bước chân khi chúng dậm trên ván sàn gỗ, và hôm nay chúng khiến cho chiếc gương rất bực mình. Bực mình ghê lắm. Chiếc gương đứng nghiêm, và với vẻ hăng hái muốn làm hài lòng, nó chỉnh cho hình ảnh phản chiếu của bà Marcia mảnh bớt đi tám phẩy ba phần trăm, khiến bà trông giống như một con bọ màu tía, cáu kỉnh, ốm tựa cây sậy.
“Khùng!” Bà Marcia gắt.
Chiếc gương tính toán lại. Nó ghét phải làm toán vào lúc sớm bảnh mắt, và nó tin chắc là bà Marcia đã cố ý đưa cho mình cái phần trăm quỷ quái như thế này. Bộ bà ấy không thể ốm đi theo một con số tròn, kiểu như 5%, hoặc thậm chí nhỉnh thêm chút nữa là 10% được sao. Chiếc gương thích những con số 10% lắm – nó có thể làm được những số ấy.
Bà Marcia mỉm cười với hình ảnh mình trong gương. Trông bà thật tuyệt vời.
Bà mặc đồng phục Pháp sư Tối thượng mùa đông vào. Bộ đồ rất vừa vặn với bà. Chiếc áo chùng hai lớp lụa màu tía được viền lông mèo angora màu chàm mềm mại nhất. Nó duyên dáng buông xuống từ đôi bờ vai rộng và ngoan ngoãn chụm lại ôm quanh đôi bàn chân nhọn của bà. Bàn chân của bà Marcia nhọn là vì bà mê thích các loại giày mũi nhọn, và bà hay đặt đóng riêng cho thật đặc biệt. Chúng được làm bằng da rắn, thứ da được lột từ loài trăn tía mà tiệm giày cất giữ ở sân sau, chỉ chuyên dùng để đóng giày cho bà Marcia. Ông thợ giày Terry Tarsal ghét rắn và tin rằng bà Marcia đặt da rắn là có chủ ý. Có lẽ ông ta đúng. Đôi giày da trăn của bà Marcia óng ánh lên trong ánh sáng phản chiếu từ chiếc gương, và vàng cùng bạch kim nạm trên dải dây thắt lưng Pháp sư Tối thượng của bà chói rực lên thật oai nghi. Quanh cổ bà đeo tấm bùa Hộ mạng Akhu, biểu tượng và nguồn sức mạnh của Pháp sư Tối thượng.
Bà Marcia hài lòng. Hôm nay bà cần toát lên vẻ uy nghi. Uy nghi và một chút đáng sợ. Đúng, chỉ một chút đáng sợ nếu cần. Bà hy vọng là không cần đến nó.
Bà Marcia không chắc là mình có tỏ ra đáng sợ được hay không. Bà cố thử vài điệu bộ trong gương. Chiếc gương co rúm lại im re, nhưng bà vẫn chưa chắc mình sẽ chọn điệu bộ nào. Bà Marcia không nhận ra rằng hầu hết mọi người đều cho là bà thật sự đáng sợ lắm rồi, một vẻ đáng sợ hoàn toàn tự nhiên.
Bà Marcia bật ngón tay.
“Sau!” Bà quát.
Chiếc gương soi phía sau bà.
“Hông!”
Chiếc gương soi cả hai bên hông bà.
Sau đó bà đi ra. Bước xuống cầu thang hai bậc một, xuống nhà bếp để khiến chiếc bếp lò hoảng hồn, nó đã nghe tiếng bà đi tới và cuống quít tự thắp lửa lên trước khi bà bước qua ngưỡng cửa.
Nhưng nó làm không xong, và bà Marcia cau có, quạu quọ suốt bữa điểm tâm.
Bà Marcia bỏ mặc chén dĩa bữa sáng cho chúng tự rửa lấy và bước thoăn thoắt ra khỏi cánh cửa tía nặng chịch dẫn tới các phòng của bà. Cánh cửa đóng lại một tiếng “cách” nhẹ, đầy kính cẩn sau lưng khi bà Marcia nhảy lên dãy cầu thang xoắn bạc.
“Xuống,” bà bảo cầu thang.
Nó bắt đầu quay như một cái mở nút chai khổng lồ, chậm rãi đưa bà xuống tòa tháp cao sừng sững, qua những tầng gác như vô tận và những cánh cửa đủ kiểu đủ loại – mà tất cả đều dẫn tới những phòng của các pháp sư theo một hệ thống phân bậc tài tình. Từ các căn phòng vọng ra tiếng luyện bùa, tiếng niệm thần chú và tiếng những ông bà pháp sư râm ran nói chuyện với nhau trong bữa sáng. Mùi thịt xông khói, cốm bắp, và cháo hòa quyện lạ lùng với mùi trầm hương, bay dập dềnh lên từ sảnh đường phía dưới, và khi chiếc cầu thang xoắn ốc nhẹ nhàng dừng lại, bà Marcia bước ra, cảm thấy hơi mắc ói và nhìn về phía trước, hướng thẳng vào bầu không khí trong lành. Bà bước lẹ làng qua sảnh đường, tới cánh cửa đôi đồ sộ bằng bạc đặc, chấn giữ lối vào Tháp Pháp sư. Bà Marcia đọc mật khẩu, cánh cửa đôi lẳng lặng mở ra cho bà, và một tích tắc sau bà Marcia đã đi qua vòm cửa bạc, xông ra ngoài cái lạnh cắt da thịt của một buổi sáng giữa mùa đông tuyết đổ.
Khi bà Marcia đi xuống những bậc thang dốc, thận trọng dẫm đôi giày có mũi nhọn hoắt lạo xạo lên tuyết, bà khiến cho tên lính canh đang vơ vẩn chọi tuyết vào một con mèo hoang sững người lại. Một cục tuyết đáp bịch xuống tấm áo chùng lụa tía của bà.
“Đừng thế chứ!” Bà Marcia nạt, phủi cục tuyết khỏi áo chùng.
Tên lính canh giật bắn mình đứng nghiêm. Trông hắn kinh hãi. Bà Marcia nhìn đăm đăm vào thằng bé trông như trẻ bụi đời. Nó mặc đồng phục của lính canh, một kiểu thiết kế ngớ ngẩn từ vải cô-tông mỏng, một manh áo chẽn sọc đỏ và trắng có bèo màu tía diềm quanh ống tay áo. Nó cũng đội một chiếc nón mềm lớn màu vàng, mang vớ ôm màu trắng và ủng màu vàng chói, và bàn tay trái của nó, để trần và xanh thẫm lại vì lạnh, cầm một cán giáo nặng.
Bà Marcia từng phản đối khi những tên lính canh đầu tiên đến Tháp Pháp sư. Bà đã bảo với ông Bảo hộ Toàn quyền rằng các pháp sư không cần phải có bảo vệ. Họ có thể tự chăm sóc mình rất tốt, xin cảm ơn. Nhưng lão ta chỉ nhếch nụ cười khinh mạn của mình và điềm nhiên bảo với bà rằng có lính canh là vì sự an toàn của các pháp sư. Bà Marcia nghi ngờ gã đặt bọn chúng ở đó không chỉ để theo dõi việc ra vào của các pháp sư mà còn để làm cho các pháp sư thành ngớ ngẩn.
Bà Marcia nhìn tên lính canh vừa ném tuyết. Chiếc nón rộng quá khổ đối với nó – sụp hẳn xuống và đậu lại trên hai tai, coi bộ loe ra đúng chỗ để tiện hứng không cho chiếc nón sụp xuống mắt nó. Vành nón tạo cho gương mặt gầy gò, tím tái của thằng bé có màu vàng nhợt, yếu ớt. Hai con mắt xám sâu thẳm trố lên kinh hoàng bên dưới cái nón khi thằng bé nhận ra mình vừa ném tuyết trúng Pháp sư Tối thượng.
Trông hắn, bà Marcia nghĩ, quá bé con để làm một tên lính.
“Mi bao nhiêu tuổi?” Bà hỏi như buộc tội.
Tên lính canh đỏ mặt. Trước giờ chưa từng có ai như bà Marcia thèm nhìn nó, chứ đừng bảo là nói chuyện với nó.
“Mư... ười, thưa bà.”
“Thế sao mi không đi học?” Bà Marcia hạch hỏi.
Tên lính canh tỏ ra kiêu hãnh:
“Tôi không cần trường học, thưa bà. Tôi ở trong Thiếu sinh quân. Chúng tôi là niềm tự hào của Hôm nay, là chiến binh của Ngày mai.”
“Mi có lạnh không?” Bà Marcia buột miệng hỏi.
“Kh... không, thưa bà. Chúng tôi được huấn luyện để không cảm thấy lạnh.”
Nhưng đôi môi của tên lính canh đã tím bầm và nó run bần bật khi nói.
“Hừ,” bà Marcia nện giày xuống tuyết, đi khỏi, bỏ lại tên lính với bốn giờ canh gác nữa của nó.
Bà Marcia bước phăm phăm qua khoảng sân dẫn ra khỏi Tháp Pháp sư, và bươn qua một cánh cổng hông, đưa bà vào một lối đi bộ im ắng, ngập tuyết.
Bà Marcia đã là Pháp sư Tối thượng được mười năm rồi, kể từ ngày ấy, và khi dấn bước trên đường, ý nghĩ của bà lùi về quá khứ. Bà nhớ cái thời mình còn là một mầm hy vọng đáng thương, đọc ngấu nghiến bất cứ thứ gì về pháp thuật, hy vọng một điều hiếm hoi – ấy là được chọn làm học trò của Pháp sư Tối thượng, ngài Alther Mella. Đó là những năm tháng hạnh phúc sống trong một căn phòng nhỏ ở khu Mở Rộng cùng với rất nhiều mầm hy vọng khác, hầu hết họ sau đó không lâu đều được chọn làm học trò của những Pháp sư Thường đẳng. Nhưng Marcia không muốn vậy. Cô biết mình muốn gì, và cô muốn vị trí cao nhất cơ. Thế nhưng, Marcia vẫn không thể tin nổi vận may của mình khi cô có cơ hội được nhận làm học trò của ngài Alther Mella. Mặc dù trở thành học trò của ngài không có nghĩa là cô sẽ trở thành Pháp sư Tối thượng, nhưng đó là một bước nữa tiến gần hơn đến giấc mơ của mình. Và vì vậy, Marcia mất thêm bảy năm và một ngày kế tiếp sống trong Tháp Pháp sư với tư cách là học trò của Alther.
Bà Marcia bất giác mỉm cười một mình khi nhớ lại Alther Mella là một pháp sư tuyệt vời như thế nào. Phương pháp sư phạm của ngài thật dễ gây hứng thú, ngài kiên nhẫn khi bùa chú bị ếm sai, và ngài luôn có câu bông đùa mới để dành cho cô. Ngài cũng là một pháp sư có quyền năng thâm hậu. Cho đến khi chính Marcia trở thành Pháp sư Tối thượng, cô vẫn chưa thể hình dung nổi ngài Alther kiệt xuất đến mức nào. Nhưng trên hết thảy, ngài Alther là một người dễ mến. Nụ cười của bà chợt tắt khi bất giác nghĩ tới sự kiện mình đã thay vị trí của ngài như thế nào, và bà nghĩ về cái ngày cuối cùng của cuộc đời ngài Alther Mella, cái ngày mà bây giờ ông Bảo hộ Toàn quyền gọi là Ngày Đầu.
Chìm đắm trong suy tư, bà Marcia bước lên những bậc thang hẹp dẫn lên gờ tường rộng, có mái che, chạy ngay dưới chân bức tường Lâu đài. Đó là một lối đi tắt tới Bờ Đông, tên gọi mới hiện thời của khu Mở Rộng, và cũng là nơi hôm nay bà đang hướng tới. Gờ tường này được bảo tồn để cho đội Tuần tra Vũ trang Bảo hộ sử dụng, nhưng bà Marcia biết rằng, ngay cả thời nay, không ai ngăn được Pháp sư Tối thượng đi bất cứ nơi nào. Vì vậy, thay vì len lỏi đi qua những hành lang vô tận, thỉnh thoảng đông cứng như nhiều năm trước vẫn đi, bà lại di chuyển dọc theo gờ tường cho đến khi, khoảng chừng nửa giờ sau, bà trông thấy một cánh cửa, và bà nhận ra chính là nó.
Bà Marcia hít một hơi thật sâu. Thế đấy, bà thầm nhủ.
Bà đi theo một dãy cầu thang xuống gờ tường và đứng đối mặt với cánh cửa. Vừa cúi người định xô cánh cửa một cú thì nó đã hoảng sợ khi trông thấy bà và liền mở bung ngay ra. Bà Marcia lao vụt qua cửa và tông ầm vào bức tường mỏng mảnh đối diện. Cánh cửa đóng sập lại, và bà Marcia nín thở. Hành lang tối hù, ẩm ướt và bốc mùi bắp cải luộc, mùi nước đái và phân mèo khô. Cái này không như những thứ mà bà Marcia nhớ. Hồi bà sống ở trong khu Mở Rộng, những hành lang này từng rất ấm và sạch sẽ, được thắp sáng bằng những ngọn đuốc ống sậy, gắn cách khoảng dọc theo bức tường và được các cư dân đầy tự hào ở đây lau chùi mỗi ngày.
Bà Marcia hy vọng mình còn nhớ đường tới căn phòng của Sarah và Silas Heap. Trong những năm là học trò, bà thường hay phóng vù qua cánh cửa nhà họ, hy vọng Silas Heap đừng trông thấy bà mà mời vào. Tiếng ồn ào là thứ bà nhớ nhất, tiếng náo loạn của đám nhóc con la thét, nhảy nhót, đánh nhau và làm bất cứ điều gì bọn con trai nhỏ hay làm, mặc dù bà Marcia không biết chắc bọn chúng hay làm gì – bởi vì bà thích tránh né con nít hơn, nếu có thể tránh được.
Bà Marcia cảm thấy hơi hồi hộp khi bước dọc theo những hành lang tối om, ẩm thấp. Bà bắt đầu tự hỏi mọi việc đã ra sao rồi kể từ lần đầu tiên bà đến nhà Silas hơn mười năm qua. Bà hãi hùng về điều mình sẽ phải nói cho gia đình Heap, thậm chí bà còn tự hỏi không biết Silas có tin mình không. Anh ta là một pháp sư bướng bỉnh, và bà biết anh ta không thích bà cho lắm. Cứ như vậy, với những ý nghĩ quay cuồng trong đầu, bà Marcia bước dứt khoát dọc theo những hành lang và không để ý tới bất kỳ điều gì khác.
Nếu bà chịu khó để ý một chút, thì chắc hẳn bà đã kinh ngạc trước những phản xạ của mọi người đối với bà. Lúc này là tám giờ sáng, giờ mà Silas Heap gọi là giờ cao điểm. Hàng trăm con người mặt mày xanh xao hối hả trên đường đi làm, đôi mắt ngái ngủ của họ lớp chớp trong bóng tối, và bộ đồ rẻ tiền, mỏng manh ôm sát lấy người họ, những mong chống lại cái lạnh thấu xương phả ra từ những bức tường đá ẩm. Giờ cao điểm ở trong những hành lang của Bờ Đông là giờ phải tránh. Dòng người ùn ùn xô nhau đi, vượt qua cả ngõ hẻm mà ai đó tính quẹo, cho tới khi người đó cố luồn lách sao đó để xuyên qua được dòng người bên này và nhập được vào dòng người ở chiều bên kia. Bầu không khí giờ cao điểm luôn đầy ắp những tiếng la ai oán:
“Cho tôi ra khỏi đây, làm ơn đi!”
“Đừng có đẩy tôi!”
“Để tôi quẹo, tôi quẹo!”
Nhưng bà Marcia đã làm cho giờ cao điểm biến mất. Không cần thiết phải dùng đến pháp thuật ở đây – chỉ nội việc bà Marcia xuất hiện thôi đã đủ khiến cho tất cả mọi người đang đi bỗng ngừng phắt lại rồi. Trước giờ hầu hết cư dân của Bờ Đông đều chưa từng trông thấy Pháp sư Tối thượng. Nếu họ có trông thấy bà chút nào đó, thì chắc hẳn là do họ đã đi một ngày đường tới Trung tâm Tham quan của Tháp Pháp sư, và nấn ná ở khoảng sân cả ngày, hy vọng mình may mắn thoáng thấy được bà. Vì thế cho nên việc Pháp sư Tối thượng cùng đi với họ trong những hành lang nhớp nháp của Bờ Đông là điều không thể tin nổi.
Mọi người há hốc miệng và co rúm lại. Họ tan chảy vào những hốc cửa tăm tối và lỉnh biến vào những ngõ ngách bên các hông nhà. Họ lầm rầm niệm bùa chú. Một số khác đông cứng lại và đứng ngây ra tại chỗ, hệt như những con thỏ bị một luồng ánh sáng chói lòa lia trúng. Họ dòm bà Marcia trao tráo như thể bà là một sinh vật đến từ hành tinh khác; mà đúng ra bà đã phải dọn ra cái hành tinh ấy chính vì những sự khác nhau giữa cuộc sống của bà và của họ.
Nhưng bà Marcia thật sự không nhận ra điều này. Mười năm làm Pháp sư Tối thượng đã tách biệt bà khỏi cuộc sống thực, và cho dù có sửng sốt đến đâu chăng nữa khi lần đầu tiên việc đó xảy ra, thì bây giờ bà cũng đã quen với việc người ta dạt ra nhường đường cho mình, cúi chào và lẩm nhẩm những lời tôn kính xung quanh mình.
Bà Marcia bước ra khỏi đường phố chính và rẽ vào hành lang hẹp dẫn tới nhà của gia đình Heap. Trên đường đi, bà Marcia nhận thấy tất cả những hành lang bây giờ đều được đánh số, thay thế cho những cái tên kỳ quặc của chúng trước kia, chẳng hạn như Góc gió, Hẻm ngược.
Địa chỉ hồi trước của gia đình Heap là: Cửa Đỏ lớn, Lô tới và Lùi lại, khu Mở Rộng.
Bây giờ hóa ra nó lại là như thế này: Phòng 16, Hành lang 223, Bờ Đông. Bà Marcia biết rõ mình thích tên nào hơn.
Bà Marcia đã tới cửa nhà Heap, cánh cửa vừa bị đội Tuần Sơn sơn đen cách đây vài ngày. Bà nghe được tiếng huyên náo ầm ĩ của bữa sáng nhà Heap ở đằng sau cánh cửa. Bà hít thở vài hơi thật sâu.
Bà không thể trì hoãn khoảnh khắc này lâu hơn được nữa.
Liệu bà Marcia có kịp đưa Công chúa bé nhỏ thoát khỏi bàn tay tử thần của mụ Ám Sát Binh không? Tại sao Nữ hoàng lại chết một cách đột ngột? Mời bạn đón đọc kỳ 5: Tại nhà Heap |