NXBT: Người con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy, có tên là Septimus Heap, ngay khi sinh ra đã bị bà đỡ ăn cắp mất và báo là đã chết. Vào cùng đêm đó, cha của cậu là Silas Heap đi ngang qua rừng cây và thấy trong tuyết có một bọc đựng một bé gái mới sinh mang cặp mắt vào tím. Ông Heap mang bé gái đó về nhà, đặt tên là Jenna, nuôi nấng và yêu thương như con gái mình.
Bé gái bí mật đó là ai? Và chuyện gì xảy ra với cậu bé sơ sinh bị đánh cắp? Tập đầu tiên của bộ sách hấp dẫn này được Angie Sage dẫn dắt một cách kỳ ảo và hài hước, với đầy những nhân vật thần bí lạ lùng và hấp dẫn, những độc dược, những câu thần chú chưa từng thấy, những thân phận bí ẩn, những câu chuyện bất ngờ vào phút chót. Mời bạn đọc trích đoạn sách với kỳ 3:
Vị bảo hộ toàn quyền |
Sáu giờ sáng và trời vẫn còn tối, đã mười năm tính từ cái ngày Silas tìm thấy cái bọc.
Ở cuối Hành lang 223, đằng sau cánh cửa lớn màu đen có số 16 do Đội Tuần tra Số nhà đóng lên, gia đình Heap đang ngủ say sưa. Jenna nằm cuộn tròn trên chiếc giường hộp xinh xinh của mình, chiếc giường do Silas đóng cho cô bé từ gỗ dạt trôi tấp vào bờ sông. Chiếc giường được đóng thành một chiếc tủ lớn, kê ở đầu một căn phòng rộng, mà thật ra đó là căn phòng duy nhất thuộc quyền sở hữu của gia đình Heap.
Jenna yêu chiếc giường của bé lắm. Sarah dùng vải vụn màu sắc sặc sỡ may chắp lại thành những tấm rèm để cho Jenna có thể kéo xuống, quây kín giường, vừa tránh được rét lại vừa tránh khỏi đám anh ồn ào của mình. Điều thú vị nhất là, cô bé có một ô cửa sổ nho nhỏ ở trên tường, ngay phía trên gối nằm một chút, nhìn ra dòng sông. Nếu Jenna không ngủ được, cô bé có thể chong mắt ngó ra cửa sổ hàng nhiều giờ liền, ngắm những đoàn thuyền vô tận, đủ mọi kiểu dáng, tấp nập đi ra đi vào Lâu đài, và thỉnh thoảng vào những đêm trời trong, cô bé mê mẩn đếm sao cho đến khi ngủ thiếp đi.
Căn phòng lớn là chỗ cho toàn thể gia đình Heap sống, nấu nướng, ăn, tranh luận, và (thỉnh thoảng) làm bài tập về nhà. Căn phòng bừa bộn kinh khủng. Nó chứa lủ khủ những món đồ tích góp được suốt hai mươi năm kể từ khi Sarah và Silas cùng nhau gầy dựng gia đình. Nào là cần câu cá và cuộn dây nhợ, giày và vớ, dây thừng và bẫy chuột, túi giỏ và chăn mền, lưới và que đan, rồi nào là quần áo và nồi niêu xoong chảo, gối và đồ nghề nấu bếp; rồi sách, sách, sách, và đương nhiên, ngày càng thêm nhiều sách.
Nếu ai đó ngớ ngẩn mà đảo mắt quanh căn phòng của gia đình Heap, hy vọng tìm được một chỗ trống để ngồi, thì chắc chắn sách sẽ là thứ được trông thấy trước tiên. Tất cả mọi ngóc ngách, xó xỉnh đều toàn sách là sách. Sách trên những cái kệ nghiêng võng, sách trong thùng, sách trong những cái bao treo thòng từ trên trần nhà xuống, sách dùng để kê bàn, và sách chất thành những chồng cao ngất nghểu, đe dọa có thể đổ sập xuống vào bất cứ lúc nào. Sách truyện, sách dược thảo, sách nấu ăn, sách về thuyền, sách dạy câu cá, nhưng chiếm phần lớn là hàng trăm quyển sách Pháp thuật, do Silas lén lút cứu vớt khỏi trường học khi Pháp thuật bị cấm cách đây vài năm.
Chính giữa căn phòng là một lò sưởi lớn, từ đó một ống khói cao vút lên, ngoằn ngoèo bò xuyên qua mái nhà – trong lò chứa những tàn dư của một ngọn lửa, giờ đã lạnh ngắt, xung quanh lò là sáu thằng con trai nhà Heap và một con chó to đùng đang ngủ ngổn ngang trong một đống mền bông và tấm đắp.
Sarah và Silas cũng đang ngủ ngon lành. Họ đã tẩu thoát lên gác mái bé tí, do Silas chiếm được cách đây vài năm bằng một cách đơn giản là trổ hẳn một lỗ xuyên qua trần nhà, sau khi Sarah tuyên bố rằng bà không còn chịu nổi cảnh sống chung phòng với sáu thằng quỷ nhỏ đang lớn nữa.
Nhưng, giữa đám lộn xộn trong căn phòng lớn, một ốc đảo nhỏ ngăn nắp nhô lên – một chiếc bàn dài, hơi xộc xệch phủ khăn bàn trắng tinh. Trên bàn bày biện chín cái dĩa và chín cái ca, và ở đầu bàn có một chiếc ghế nhỏ được trang trí bằng lá cây và quả mọng mùa đông. Mặt bàn phía trước chiếc ghế có đặt một món quà xinh xinh, được gói cẩn thận trong giấy hoa và cột ruy băng đỏ thắm, sẵn sàng cho Jenna mở ra vào ngày sinh nhật thứ mười của cô bé.
Tất cả đều yên ắng và thinh lặng khi gia đình Heap nằm ngủ an bình trong suốt những tiếng đồng hồ cuối cùng của đêm tối, trước khi mặt trời mùa đông đến hẹn lại lên.
Tuy nhiên, ở đầu đằng kia Lâu đài, trong Cung Điện của những người Bảo hộ, giấc ngủ, dù yên bình hay không, vẫn luôn bị bỏ bê.
Vị Bảo hộ Toàn quyền vừa bị dựng dậy khỏi giường, và với sự trợ giúp của tên Hầu Đêm, ông ta lật đật mặc chiếc áo chẽn màu đen viền lông thú và khoác chiếc áo chùng đen khảm vàng nặng chịch vào, xong quay sang quát tháo, hướng dẫn Hầu Đêm cách cột dây đôi giày lụa thêu cho mình. Rồi, tự tay ông ta đội chiếc vương miện tuyệt đẹp lên đầu. Vị Bảo hộ Toàn quyền không bao giờ để ai trông thấy mình không có vương miện ngự trên đầu, nó vẫn mang một vết lõm từ ngày bị rớt khỏi đầu Nữ hoàng và lao xuống nền nhà bằng đá. Chiếc vương miện đậu hơi vẹo trên cái hộp sọ hói, nhòn nhọn của ông ta, nhưng tên Hầu Đêm, mới vào làm và sợ đến chết khiếp, không dám thông báo cho ông ta biết.
Vị Bảo hộ Toàn quyền sải những bước chân hùng dũng trong hành lang dẫn tới phòng Thiết triều. Đó là một người đàn ông nhỏ choắt như chuột, da tái, với đôi mắt hình như không màu, và một bộ râu dê cầu kỳ mà ông ta vốn có thói quen tốn hàng nhiều giờ tỉa tót, ngắm vuốt một cách khoái chí. Ông ta gần như bị gói gọn trong chiếc áo khoác rộng lùng phùng, khảm đầy những phù hiệu quân đội, và diện mạo ông ta trông hơi lố bịch do chiếc vương miện thanh thoát của phụ nữ bị đội lệch. Nhưng giả sử có ai trông thấy ông ta vào buổi sáng hôm ấy, thì chắc chắn người đó cũng không dám bật cười, mà hẳn là sẽ chỉ biết co núp vào bóng tối, hy vọng ông ta đừng nhìn thấy mình, bởi vì từ ông Bảo hộ Toàn quyền tỏa ra một bầu không khí đe dọa ghê gớm.
Gã Hầu Đêm giúp vị Bảo hộ Toàn quyền an vị trên chiếc ngai vàng trang trí hoa văn cầu kỳ ở trong phòng Thiết triều. Sau đó, bị phẩy tay đuổi đi một cách nôn nóng, gã liền hấp tấp rời đi khỏi với vẻ biết ơn; ca trực của gã sắp hết.
Không khí lạnh như cắt buổi sáng ở lì trong phòng Thiết triều. Bảo hộ Toàn quyền ngồi dửng dưng trên ngai vàng, nhưng hơi thở của ông ta, bị bám khí lạnh thành những tiếng phì phò gấp rút, đã tố cáo tâm trạng kích động của ông.
Ông ta không cần đợi lâu thì đã có một phụ nữ trẻ, cao, mặc áo chùng đen tuyền và áo chẽn đỏ rực của Ám Sát binh lanh lẹ bước vào, và cúi chào thấp đến nỗi hai ống tay áo xẻ của mụ quết xuống sàn đá.
“Tâu, đã tìm thấy Công chúa,” mụ Ám Sát binh tâu bằng giọng trầm.
Bảo hộ Toàn quyền ngồi thẳng dậy và giương đôi mắt trắng dã dòm mụ Ám Sát binh.
“Ngươi chắc chứ? Ta không muốn sai lầm lần này đâu đấy,” ông ta cất giọng đe dọa.
“Tâu, gián điệp của chúng ta đã nghi ngờ một đứa trẻ từ lâu. Chị ta để ý thấy con bé là một người lạ trong gia đình của chính nó. Hôm qua, gián điệp của chúng ta phát hiện ra đứa trẻ này đúng tuổi.”
“Chính xác mấy tuổi?”
“Đúng mười tuổi vào hôm nay, tâu Chúa thượng.”
“Thật không?” Vị Bảo hộ Toàn quyền ngả người ra sau ngai vàng và nghiền ngẫm những lời mụ Ám Sát binh vừa nói.
“Tâu, thần có hình đứa trẻ ấy ở đây. Thần thấy rằng nó rất giống mẹ nó, cựu Nữ hoàng.”
Mụ Ám Sát binh lôi từ bên trong áo chẽn ra một tờ giấy nhỏ. Trên giấy là bức tranh, với nét vẽ thật tài tình, một bé gái có đôi mắt màu tím đậm và mái tóc đen dài. Bảo hộ Toàn quyền cầm lấy bức vẽ. Quả đúng vậy. Con bé này giống Nữ hoàng đã chết như đúc. Ông ta liền ra ngay một quyết định và bật những ngón tay xương xẩu một tiếng tách thật to.
Mụ Ám Sát binh nghiêng mình, cúi đầu.
“Bẩm?”
“Tối nay. Nửa đêm. Đến ngay... ở đâu, hả?”
“Bẩm, phòng 16, Hành lang 223.”
“Họ?”
“Bẩm, Heap.”
“Ờ. Mang súng bạc. Bao nhiêu người trong gia đình đó?”
“Bẩm, chín, kể cả đứa trẻ.”
“Thế thì, chín viên đạn để phòng rắc rối. Viên bạc dành cho đứa trẻ. Mang nó về đây cho ta. Ta muốn có bằng chứng.”
Mụ phụ nữ trẻ mặt trắng bệch. Đây là bài kiểm tra đầu tiên, và duy nhất của mụ. Không có cơ hội thứ hai cho Ám Sát binh.
“Bẩm, vâng.”
Mụ cúi chào nhanh và rút lui, hai bàn tay mụ run cầm cập.
Trong một góc lặng lẽ của phòng Thiết triều, hồn ma Alther Mella đứng dậy khỏi băng ghế đá lạnh toát mà ngài ngồi nãy giờ. Ngài thở dài và duỗi thẳng đôi cẳng ma. Xong, quấn mấy lớp áo thụng màu tía nhạt quanh mình, ngài hít một hơi thật sâu và bước xuyên qua bức tường đá của phòng Thiết triều.
Ra đến ngoài trời, hồn ma bay lượn ở độ cao cách mặt đất mười tám mét trong bầu không khí lạnh buổi sáng còn tối mờ. Thay vì sải bước theo đúng cách thức cao quý mà một hồn ma ở tuổi tác và địa vị của ngài nên tuân thủ, thì Alther lại dang cánh tay ra như cánh chim và uyển chuyển chao liệng qua làn tuyết rơi.
Bay là điều duy nhất mà hồn ma Alther thích thú về phận làm ma. Bay, hay Nghệ thuật Khinh công Thất truyền, là môn phái mà những Pháp sư Tối thượng hiện đại không còn thực hiện được nữa. Ngay cả Marcia, người đáng ra phải bay được, cũng chẳng làm được khá hơn một cú liệng chớp nhoáng rồi đâm sầm xuống đất. Vì lý do nào đó, bí mật Khinh công đã bị thất lạc. Nhưng dĩ nhiên tất cả mọi con ma đều có thể bay được. Và kể từ khi thành ma, Alther đã mất luôn nỗi ám ảnh sợ độ cao của mình, và đã mải mê dành không biết bao nhiêu giờ để chau chuốt cho những cú nhào lộn tinh xảo. Ngoài ra, phận làm ma chẳng có gì có thể khiến ngài thích thú, và ngồi trong phòng Thiết triều (nơi trước kia, khi còn sống ngài từng đóng đô thật sự – và tiếp tục là nơi Alther trải qua một năm và một ngày kiếp làm ma của mình) là một trong những công việc mà ngài ít thích nhất. Nhưng ngài buộc phải làm. Alther tự coi bổn phận của mình là phải biết vị Bảo hộ Toàn quyền đang âm mưu cái gì, và phải cố cập nhật tin tức cho bà Marcia. Nhờ sự giúp sức của hồn ma Alther mà bà có thể giữ được trạng thái đi trước Bảo hộ Toàn quyền một bước và bảo vệ an toàn cho Jenna. Tính cho đến bây giờ.
Suốt bao nhiêu năm, kể từ khi Nữ hoàng tạ thế, Bảo hộ Toàn quyền càng ngày càng ráo riết săn lùng Công chúa. Năm nào ông ta cũng thân hành rong ruổi đường xa, và nguy hiểm, tới Vùng Đất Hoang. Ở đó, ông ta buộc phải báo cáo tiến độ của mình cho một cựu Pháp sư Tối thượng biến thành Thầy đồng Gọi hồn, DomDaniel. Chính DomDaniel là kẻ đã sai Ám Sát binh đầu tiên đi thủ tiêu Nữ hoàng, và chính DomDaniel đã dựng nên vị Bảo hộ Toàn quyền và bè lũ tay sai để lùng sục Lâu đài và truy tìm Công chúa. Bởi vì chừng nào Công chúa vẫn còn ở trong Lâu đài, chừng đó DomDaniel còn không dám lại gần. Vì vậy, năm nào Bảo hộ Toàn quyền cũng hứa với DomDaniel rằng năm nay ông ta sẽ thành công. Năm nay, ông ta sẽ quét sạch tàn tích của Nữ hoàng và cuối cùng sẽ chuyển giao Lâu đài cho chủ nhân đích thực của nó, DomDaniel.
Và chính vì lý do này mà khi hồn ma Alther rời khỏi phòng Thiết triều, Bảo hộ Toàn quyền đeo vào gương mặt mình thứ mà ngày xưa mẹ ông vẫn gọi là nụ cười ngốc nghếch. Rốt cuộc, ông ta đã làm xong việc được giao. Dĩ nhiên, ông ta nghĩ bụng (trong lúc nụ cười ngốc nghếch biến thành cái mỉm cười tự mãn), chẳng phải nhờ trí thông minh và tài năng tuyệt tột đỉnh của mình mà mình đã phát hiện ra con bé đấy sao. Nhưng không phải – chẳng qua là nhờ một cú ăn may quái dị mà thôi.
Khi Bảo hộ Toàn quyền chiếm lĩnh Lâu đài, một trong những điều đầu tiên ông ta làm là cấm phụ nữ có chân trong trụ sở hành chính. Nhà vệ sinh Nữ, vì không còn dùng đến nữa, cuối cùng trở thành một phòng họp Hội đồng nhỏ. Trong suốt tháng lạnh căm vừa qua, Hội đồng Bảo hộ nhóm họp ở cái phòng trước kia là Nhà vệ sinh Nữ, rất tiện lợi vì có lò sưởi đốt củi, ấm hơn phòng Hội đồng Bảo hộ nhiều ngóc ngách, nơi từng cơn gió buốt thấu cứ hú hít réo quanh và đông cứng bàn chân các ông Hội đồng thành những khối nước đá.
Và như vậy, rất vô tình, đúng một lần duy nhất mà quân Bảo hộ đã đi trước hồn ma Alther Mella một bước. Vì là ma, nên Alther chỉ đi tới được những nơi mà khi còn sống ngài từng đi – và, vốn là một Pháp sư trẻ có giáo dục, cả đời Alther không bao giờ léo hánh đến Nhà vệ sinh Nữ. Điều duy nhất ngài có thể làm là lảng vảng chờ bên ngoài, như hồi còn sống và đang tán tỉnh thẩm phán Alice Nettles.
Một buổi xế chiều lạnh băng cách đây vài tuần, con ma Alther đã thấy Hội đồng Bảo hộ đi vào Nhà vệ sinh Nữ. Cánh cửa nặng nề, có dòng chữ quý bà vẫn còn thấy được những mẫu tự vàng bị phai nhòa, đóng sầm lại sau lưng chúng, và ma Alther lượn lờ bên ngoài, dán tai vào cánh cửa, cố nghe ngóng xem chúng đang bàn bạc gì. Nhưng dù có cố thế nào, ngài cũng không thể nghe được việc Hội đồng Bảo hộ quyết định phái tên gián điệp xuất sắc nhất của chúng, Linda Lane, biết thảo dược và chữa bệnh, tới sống ở phòng 17, Hành lang 223, sát bên phòng của gia đình Heap.
Và như vậy cả hồn ma Alther lẫn gia đình Heap đều không hay biết rằng, người láng giềng mới là một gián điệp. Và lại là một tên gián điệp cừ khôi.
Khi hồn ma Alther Mella bay qua màn tuyết dày, mải nghiền ngẫm cách cứu Công chúa, ngài đã lơ đễnh lặp lại gần hai vòng quãng đường rồi mới lao xuống, xuyên qua những bông tuyết rơi dập dìu để đến Kim tự tháp vàng, ngự trên đỉnh Tháp Pháp sư.
Alther khéo léo đáp xuống bằng hai bàn chân. Trong một tích tắc, ngài đứng thăng bằng trên mũi chân. Rồi ngài nâng cánh tay lên quá đầu và quay tít thật nhanh, nhanh, nhanh nữa cho tới khi bắt đầu chìm từ từ qua mái nhà và xuống căn phòng bên dưới, nơi đây ngài tính toán sai nên đã đáp xuống và rớt vèo qua bức màn trướng treo trước cái giường bốn cọc mùng của bà Marcia Overstrand.
Bà Marcia ngồi phắt dậy thất kinh. Ma Alther nằm sóng xoài trên gối của bà, bối rối.
“Xin lỗi. Marcia. Rất bất lịch sự. Ồ tốt, ít nhất cô cũng đang không đeo ống cuốn.”
“Tóc tôi quăn tự nhiên mà, cám ơn, ngài Alther,” bà Marcia cáu kỉnh nói. “Lẽ ra ngài nên đợi đến khi tôi thức dậy thì hơn.”
Alther lộ vẻ nghiêm trang và trở nên mập mờ hơn thường lệ.
“Tôi e rằng, Marcia à,” ngài nói khó nhọc, “việc này không chờ được đâu.”