Xoay ngọn đèn rọi chung quanh, ông nhận thấy có những bậc thang, có lẽ rộng chừng nửa thước, dẫn xuống men theo thành giếng, bắt đầu ngay bên dưới cái gờ ông vừa đứng. Ông giẫm giẫm lên bậc thang thứ nhất để kiểm tra độ chắc chắn của nó, rồi bắt đầu đi xuống cầu thang, hết sức thận trọng sao cho không trượt té trên lớp bụi dày, vương vãi rơm rác và cành vụn. Ôm theo đường kính của cái giếng, ông leo xuống, càng lúc càng sâu hơn, cho đến khi cánh cửa được rọi sáng bằng ánh đèn pha chỉ còn là một cái chấm nhỏ xíu phía trên ông.
Cuối cùng cầu thang hết bậc, ông lại thấy mình đứng trên một cái sàn lát đá. Dùng đèn pin rọi chung quanh, ông có thể thấy nhiều cái ống màu đồng rỉ gắn trên tường, giống cây đàn ống ở nhà thờ. Ông dõi theo đường của một ống chạy ngoằn ngoèo lên trên thì thấy cái ống đó tận cùng nối với một cái phễu, như thể đó là một thứ ống thông gió gì đó. Nhưng cái khiến ông chú ý hơn hết là một cánh cửa có một ô kính nhỏ. Ánh sáng đang chiếu xuyên qua ô kính đó, ông không thể nhầm lẫn được. Ông tưởng đâu mình đâm ra đần độn lọt xuống âm phủ, nhất là tai ông nghe như có tiếng rì rầm của máy móc và cảm thấy như không khí bị hút xuống liên miên.
Ông từ từ tiến tới gần cửa sổ, cái ô kính dầy hình tròn, lốm đốm và trầy xước vì cũ kỹ. Ông nhóng nhìn qua và không thể tin nỗi con mắt của mình. Qua mặt kính gợn sóng, ông thấy một cảnh giống như trong phim đen trắng đã cũ bị trầy trụa. Dường như có một con đường và một dãy nhà. Và tắm trong ánh sáng tỏa từ những trái cầu rực rỡ của những đốm lửa di động chậm rãi, người ta đang lây lất quanh quẩn. Những con người bộ dạng phát gớm. Trông như những con ma xanh xao mặc quần áo thời xưa lắc xưa lơ.
Ông không phải là một con người có lòng mộ đạo lắm lắm, chỉ đi nhà thờ vào dịp cưới hỏi hay tang ma, nhưng trong một thoáng ông đã tự hỏi chẳng lẽ mình đã sa địa ngục, nếu không phải một kiểu lò luyện ngục ở khu vui chơi giải trí nào đó. Ông lùi khỏi cửa sổ, làm dấu thánh giá, lảm nhảm thảm thương mấy câu kinh Lạy Mẹ Maria sai bét, rồi cun cút đi trở lên cầu thang trong cơn hoảng loạn, đóng bít cánh cửa lại để cho quỉ sứ khỏi thoát ra.
Ông chạy băng qua công trường có tòa nhà bỏ hoang ấy, gài móc khóa cánh cổng sau lưng. Ông lái xe về trong nỗi sửng sờ, không biết có nên báo cáo xếp chuyện này vào sáng hôm sau. Mặc dù ông đã chứng kiến bằng chính mắt mình, ông cũng không thể nào đừng rà đi soát lại hình ảnh đó trong đầu. Khi về tới nhà thì ông thực tình không còn biết nên tin cái gì.
Ông không thể nào đừng kể chuyện này cho gia đình ông; ông phải nói với ai đó mới được. Aggy vợ ông và hai đứa con trai mười mấy tuổi đều cho là lúc đó ông nhậu xỉn rồi, thành ra trong bữa cơm chiều ông bị họ giỡn mặt bằng kiểu sám hối bông phèng. Ho giơ lên mấy cái chai tưởng tượng , giả bộ nốc rượu giữa những tràng cười thô lỗ, cho đến khi ông nín thinh. Nhưng dù vậy ông vẫn không sao dứt bỏ được câu chuyện. Cuối cùng bà Aggy bảo ông ngậm miệng lại, đừng lải nhải hoài về những quái vật tóc trắng dưới địa ngục và mấy trái cầu lửa lơ lửng kiểu ma trơi trong lúc bà đang cần tập trung để xem chương trình ‘Stenders trên tivi.
Thành ra ông vô nhà tắm, chà mấy cái răng hàm và thắc mắc địa ngục có thực không. Đúng lúc đó ông nghe một tiếng rú phát ra – tiếng rú của vợ ông, tiếng rú thường dành cho lũ chuột cống và mấy con nhện nhép trong buồng tắm. Nhưng trước khi tiếng rú chuyển tông thành tiếng gào thét toàn thân như thông lệ thì bị đột ngột cắt.
Bản năng ông bắt đầu rung chuông báo động, thần kinh của ông rối mù như xiếc bay vòng ngắn khi ông quay phắt người lại, chỉ kịp nhận ra đèn đóm tắt phụt và thế gian đảo lộn tùng phèo, đồng thời ông bị gạt ngã chỏng cẳng, cổ chân bị túm chặt.
Kêu cứu là chuyện bó tay, bởi vì miệng ông đã bị bít nghẽn, và ông mà còn thở được đã là một cố gắng phi thường. Có lúc ông tưởng như nghe tiếng kêu của một trong hai đứa con trai của ông, nhưng âm thanh đó ngắn và bị bưng bít nên ông không chắc lắm. Cả đời, ông chưa bao giờ thấy hoảng sợ cho gia đình mình và bản thân mình như vầy. Hoặc cảm thấy hoàn toàn bất lực, không thể cứu giúp được gì hết.