Bức thư tình gửi đến nền văn hóa và văn học Nhật Bản Tiểu thuyết cảm động về mất mát, khoảng cách và hàn gắn Tác phẩm dịu dàng về sức mạnh của ngôn từ và chuyện kể

Tựa gốc: Four seasons in Japan
Tác giả: Nick Bradley
Số trang: 408 trang
Giá bán: 180,000 VNĐ
Khổ sách: 13 x 20 cm
Lời khen dành cho tác phẩm:
“Bradley đã xây dựng một cuốn tiểu thuyết giản dị mà sâu sắc, cảm động, đầy tình yêu cũng như sự mất mát.” - Observer
“Sôi động, mê hoặc và đẹp đẽ, có một sự sâu sắc và dịu dàng trong câu chuyện được viết bằng thứ văn xuôi trữ tình ấm áp và đầy cảm xúc. Mọi mọt sách đều sẽ thích cuốn sách này.” - Glamour
“Ấm áp và đầy cảm hứng.” - Cosmopolitan
“Bốn mùa Nhật Bản cũng giống như một bức thư tình gửi đến nền văn hóa, phong cảnh và văn học Nhật Bản, khám phá nguồn an ủi trong sách vở và sự hiểu biết (sai lầm) giữa các thế hệ.” - Country & Town House
Nội dung tác phẩm:
Một cuốn sách, hai câu chuyện đan cài, bốn mùa luân chuyển…
Bốn mùa Nhật Bản, như cái tên, là một tác phẩm nhẹ nhàng, giản dị về những thăng trầm cuộc sống, về cách con người đi qua mất mát, đi qua khoảng cách để hàn gắn với nhau và hàn gắn với chính bản thân mình.
Là một biên dịch viên đã sống tại Nhật Bản nhiều năm, cũng là giảng viên chương trình thạc sĩ Viết sáng tạo tại ĐH Cambridge, tác giả đã bày tỏ sự trân trọng và tình yêu to lớn dành cho văn chương nói chung và văn học Nhật Bản nói riêng qua cuốn sách này. Với lời văn trau chuốt, mềm mại, câu chuyện trong Bốn mùa Nhật Bản tôn vinh sức mạnh của ngôn từ và văn chương, khẳng định chúng có thể giúp con người thấu hiểu chính mình và mọi người, từ đó chữa lành những nứt vỡ và tổn thương.
Tác giả đã chọn bài thơ Chẳng chịu khuất phục trước mưa to của Miyazawa Kenji để mở đầu cuốn sách:
Chẳng chịu khuất phục trước mưa to/ chẳng chịu thua cuộc cùng gió lớn
Tuyết mùa đông, cũng không đắn đo/ nắng mùa hè, càng không ngần ngại
Giữ cơ thể tráng kiện dẻo dai/ tránh xa khỏi bao điều vọng niệm
Không tức giận cũng chẳng phật lòng/ luôn mỉm cười nhàn nhã thong dong
Mỗi ngày ăn đủ bốn bát cơm/ một bát canh, một đĩa rau đầy
Quan sát và quán chiếu tất thảy/ vô tư, quên mình, không vị kỷ
Nhìn ngắm, lắng nghe và thấu suốt/ điều đã học được, chớ quên đi
[...]
Là kẻ vô danh trong mắt tất thảy/ Không được khen, không ai nhận thấy
Tôi ước làm một người như vậy
Tinh thần từ bài thơ này sẽ vang vọng xuyên suốt tác phẩm: đề cao cuộc sống giản dị, khiêm cung, kỷ luật với bản thân và tử tế với mọi người, đề cao sự bền bỉ và nhẫn nại của con người trước mọi thăng trầm cuộc sống.
Bước vào Bốn mùa Nhật Bản, trước hết ta được làm quen với Flo, một nữ dịch giả người Mỹ đang sống tại Nhật Bản. Đam mê văn chương và dịch thuật, Flo đã xuất bản tác phẩm văn chương đầu tiên do cô dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh. Tuy nhiên, nỗi sợ thất bại, cảm giác mất định hướng và vấn đề trong chuyện tình cảm khiến Flo mất dần sự tự tin, trở nên lạc lõng và suy sụp.
Trong lúc bế tắc nhất, Flo tình cờ nhặt được một cuốn sách bí ẩn mang tựa đề “Thanh âm của nước” trên một chuyến tàu điện ngầm. Đây là tác phẩm của một nhà văn với bút danh Hibiki chưa ai biết đến, kể câu chuyện hai bà cháu Ayako và Kyo hàn gắn với nhau sau những biến cố gia đình. Càng đọc, Flo càng thấy đồng cảm với nhân vật. Cô quyết định đây sẽ trở thành tác phẩm dịch thuật kế tiếp của mình và muốn tìm cho ra tác giả vô danh này để xin được chuyển ngữ ra tiếng Anh. Trong quá trình dịch thuật và hành trình tìm đến tác giả, cô vỡ lẽ ra nhiều bài học và tìm lại được mục đích sống của mình.
Với kết cấu truyện trong truyện, Bốn mùa Nhật Bản đặt câu chuyện của Flo song hành với câu chuyện trong “Thanh âm của nước”, lần lượt đi qua bốn mùa xuân hạ thu đông trong hành trình của các nhân vật. Đó cũng là hành trình đi từ lạc lối tới sự vững vàng và kiên định, từ lạc lõng tới kết nối và sẻ chia.
Câu chuyện bắt đầu từ mùa xuân, nhưng các nhân vật chính đều đối mặt với hoàn cảnh không hề tươi sáng. Vừa chia tay với cô bạn gái Yuki, không tự tin với thành quả trước đây và không biết làm gì kế tiếp, Flo rơi vào trạng thái ủ dột, mông lung, “thực sự không chắc mình đang làm gì với đời mình nữa”.
“Như thể cô đã tự xây nên một bức tường khổng lồ bao quanh mình, một chiếc barie không thể xuyên phá, và cái khả năng kéo sụp nó xuống để cho bất cứ ai bước vào mang đến cảm giác thực sự đáng sợ. Nó cứ đóng lại thì cảm giác an toàn hơn – hay vững chắc hơn.”
Trong “Thanh âm của nước”, Kyo vừa thi trượt đại học y, rồi trong cảm giác tội lỗi và nhục nhã vì thất bại, anh phải theo lời mẹ chuyển đến vùng nông thôn Onomichi để học luyện thi và ở chung với bà nội rất lâu rồi không gặp. Một người bà mà anh không biết phải đối đãi ra sao và chính bà cũng không rõ phải đối xử với anh như thế nào. Giữa hai bà cháu có một khoảng cách xa xôi được tạo nên từ khác biệt thế hệ, từ sự ngăn sông cách núi, và trên hết là từ cái chết của Kenji - cha của Kyo.
Với Kyo, “quá khứ, hiện tại và tương lai của anh đã được định đoạt trong cái hành động vị kỷ của cha”. Cha anh là một nhiếp ảnh gia chuyên chụp ảnh chiến trường, và khi Kyo còn nhỏ, ông đã trầm mình xuống sông tự tử. Vì chỉ có mẹ và anh chống lại thế giới, Kyo phải gác lại giấc mơ làm họa sĩ truyện tranh vốn là thiên hướng của anh, mà thi đại học y theo ý mẹ. Giờ đây, tất cả đều dang dở. Ước mơ của chính anh và kỳ vọng của mẹ đều không thành. Anh tự định nghĩa mình là “kẻ hèn nhát, một thất bại”, “một niềm thất vọng”. Giờ anh lại phải mắc kẹt ở Onomichi hẻo lánh với bà, trong khi các bạn đồng trang lứa đã bước vào tương lai.
Anh ghét việc làm mẹ thất vọng. Ngay từ đầu đã luôn là mẹ và anh chống lại thế giới này; những niềm vui của bà trong đời đến từ những thành công bé nhỏ của anh mới ít ỏi làm sao. Khi anh nghĩ về gương mặt mẹ ngày anh nhật kết quả, lòng anh tràn ngập cảm giác tội lỗi và nhục nhã – anh đã khiến mẹ muộn phiền.”
“Anh không mở lời được với cô, vì anh là một kẻ hèn nhát. Một kẻ hèn nhát, một thất bại của tạo hóa. Một kẻ thất học. Một sinh viên samurai vô chủ. Một niềm thất vọng với người mẹ bận rộn, và người cha nhiếp ảnh gia chiến trường đã mất.”
Cả Kyo và Flo đều đã đánh mất niềm tin với bản thân, trở nên xa cách với người xung quanh, và mất đi phương hướng cho cuộc sống. Chuyến tàu để Flo gặp được “Thanh âm của nước” và chuyến tàu đưa Kyo đến gặp bà đã thay đổi tất cả.
Bà Ayako là người nguyên tắc. Bà sở hữu một quán cà phê và sống theo những thói quen thường nhật nghiêm ngặt. Khi đón Kyo đến sống chung, bà quyết tâm phải chăm sóc cháu thật tốt, dạy dỗ cháu thật kỹ, không thể để chuyện như với cha của Kyo lặp lại với đứa cháu này.
“Có rất nhiều con đường để lên đỉnh núi, như bà Ayako biết rõ. Và thời gian cùng trải nghiệm đã dạy bà rằng, vài con đường thì dễ dàng hơn những con đường khác. Bà phải giúp anh leo lên đỉnh núi, và nếu như bà có thể đi thay phần anh và phạm sai lầm thay phần anh thì mọi thứ sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhưng điều đó là không thể.
Sau rốt, mỗi người trong đời này phải tự tạo nên hành trình của bản thân. Một mình.”
“Bà biết rất nhiều về thất bại. Bà biết về mất mát. Bà biết kha khá về lao động chăm chỉ và thành quả. Và bà biết mọi thứ cần biết về việc không bỏ cuộc. Có lẽ có những điều từ chính đời bà, những kinh nghiệm của chính bà; có lẽ vài điều trong số những thứ bà đã học được có thể giúp thằng bé lúc này. Bà chỉ cần phiên dịch nó sang một thứ ngôn ngữ anh hiểu được.”
Bà khắt khe với Kyo, bắt Kyo phải leo núi để rèn luyện thân thể cùng bà, luôn trách mắng anh gay gắt mỗi khi anh phạm lỗi, quyết không để anh sao lãng việc học tập. Ban đầu, sự khó tính và những quan niệm khác biệt của bà về lối sống đã đẩy Kyo ra. Thế nhưng đồng thời bà cũng nhận thấy và khuyến khích năng khiếu nghệ thuật của Kyo, bà dạy anh cách ứng xử, cách sống bằng những câu tục ngữ, những chuyến leo núi, kinh nghiệm của bà.
“Cháu có thể nói vậy. Ông ấy đã làm một điều gì đó khác biệt. Những nhà thơ khác đều khiến lũ ếch của mình ca hát, nhưng Basho khiến con ếch của mình im lặng. Đôi khi, điều không được nói ra cũng quan trọng hệt như điều được nói ra.”
—
“Chà, cuộc đi dạo sẽ chẳng lý thú gì nếu chúng ta ra ngoài trong cơn mưa như trút đúng không ạ?”
“Bà chẳng biết,” bà Ayako đáp trả. “Phải không? Xem chừng cháu đã quyết định dù còn chưa ra ngoài. Và ai bảo mọi thứ phải lý thú cơ chứ?”
—
“Nhiều người ngoài đó chẳng có giấc mơ, chẳng có tham vọng, họ chỉ đi làm rồi đi ngủ mỗi đêm, và điều đó khiến họ hạnh phúc. Và hoàn toàn chẳng có gì sai với điều đó, cháu biết đấy, mỗi người mỗi ưu tiên. Junin toiro. Thành ngữ cổ. Chín người mười ý. Nhưng khi cháu gặp ai đó thực sự quan tâm tới một điều gì đó theo cách giống như cháu, bà không biết, nhưng có gì đó thật quyến rũ ở đó.”
Kyo dần mở lòng với bà, nhất là khi anh khám phá ra câu chuyện của bà và của cha anh. Hóa ra, bà đã từng đối diện cái chết, đã đánh mất những người thân yêu nhất, đã phạm lỗi, nhưng bà vẫn sống một cách kiên cường. Nghị lực và tình cảm của bà đã tiếp thêm sức mạnh cho Kyo. Anh bắt đầu đặt câu chuyện của mình vào tranh vẽ, bắt đầu vẽ nên viễn cảnh tương lai, bắt đầu yêu. Chính bà Ayako cũng học được cách yêu thương anh theo cách để anh hạnh phúc nhất, và có mặt bên anh những lúc anh cần.
“Thấy mình cận kề cái chết đến vậy, bà chợt nhận ra bà chưa sẵn sàng để chết. Bà cảm nghiệm được sự choáng váng và diệu kỳ của thế gian mình đang sống. Sự tồn tại mới đáng kinh ngạc làm sao. Cái xác suất để ta có mặt ở đây, để sống sót trên cái góc nhỏ bé của hành tinh này.”
Bà Ayako và Ryo đã học cách để hiểu nhau, trân trọng, yêu thương và chăm sóc nhau. Họ cùng chia sẻ tình yêu đối với thiên nhiên và văn chương Nhật Bản, tình yêu với công việc sáng tạo, tình yêu đối với người thân. Họ đã đau vì mất mát, đau vì lịch sử đau thương của Nhật Bản. Họ đã gắn kết với nhau trong tình yêu và nỗi đau đó, vượt qua khoảng cách thế hệ.
“Anh bắt đầu hình dung ra cảnh trái bom rơi xuống thành phố. Anh hình dung nó lại rơi xuống, đêm qua, quét sạch và giết sạch tất thảy mọi người trong hộp đêm đang khiêu vũ, tất thảy những người đứng trên bờ sông cầu nguyện. Thật khó hình dung; tất thảy những cuộc đời phong phú và rực rỡ ấy đột ngột va vào cái chết. Làm sao mà phần còn lại của nhân loại này có thể tiếp tục vận hành khi biết con người ta có khả năng làm những điều khủng khiếp đến vậy với nhau? Làm sao có ai đó sống tiếp nổi đây? Anh bắt đầu nghĩ về những gì cha anh đã chứng kiến trong đời của một nhiếp ảnh gia chiến trường. Thảo nào ông đã làm như thế.”
Câu chuyện của bà Ayako và Ryo đã giúp Flo tìm lại được động lực. Cô bắt tay vào dịch câu chuyện của họ, dấn thân vào hành trình tìm kiếm tác giả qua những manh mối ít ỏi từ tác phẩm. Hành trình này cũng đã giúp Flo tìm lại chính mình.
Bốn mùa Nhật Bản được kể bằng giọng văn dịu dàng, đầy chất thơ, ngôn từ đẹp đẽ. Truyện không quá kịch tính nhưng đong đầy cảm xúc, khiến độc giả xúc động sâu sắc đến tận trang cuối cùng.
Đặc biệt, tác giả Nick Bradley khéo léo lồng ghép những câu tục ngữ, những tác phẩm văn chương và nghệ thuật Nhật Bản xuyên suốt tác phẩm: thông qua lời dạy của bà Ayako, thông qua sở thích và những cuộc trò chuyện của mọi người. Qua đó, ông bày tỏ niềm tin rằng cái đẹp của thiên nhiên, ngôn ngữ và sáng tạo có thể giúp con người hiểu thấu những tổn thương trong bản thân và người xung quanh, từ đó gắn kết với nhau, cùng giúp nhau hàn gắn.
Về tác giả
Nick Bradley là tác giả người Anh đã sống và làm biên dịch viên ở Nhật Bản nhiều năm.
Năm 2024, anh được Hội đồng Anh và Trung tâm Viết văn Quốc gia bình chọn là một trong mười ngôi sao đang lên của văn học Anh. Cho đến nay, tác phẩm của Bradley đã được dịch sang 20 thứ tiếng. Hiện anh đang giảng dạy chương trình thạc sĩ Viết sáng tạo tại Đại học Cambridge và UEA.
Trích đoạn
Về sự cô đơn, mất kết nối của Flo:
“Như thể cô đã tự xây nên một bức tường khổng lồ bao quanh mình, một chiếc barie không thể xuyên phá, và cái khả năng kéo sụp nó xuống để cho bất cứ ai bước vào mang đến cảm giác thực sự đáng sợ. Nó cứ đóng lại thì cảm giác an toàn hơn – hay vững chắc hơn.”
“Nhưng mà… tớ thực sự không chắc mình đang làm gì với đời mình nữa.”
“Có gì đó sai sai nơi cô. Cớ gì mà cô chẳng thể kết nối với những người khác? Cô vẫn là con người vô dụng không thể liên hệ với bất cứ ai còn sống và có thực – chỉ liên kết được với những nhân vật tưởng tượng tồn tại trên trang giấy.”
Về cảm giác thất bại của Kyo:
“Tâm trí của anh bỗng chuyển về những cuộc đối thoại ngắn ngủi và thưa thớt với mẹ mình gần đây. Nỗi căng thẳng và stress của những tương tác vốn đã hiếm hoi ấy, giờ vung vãi những mối lo của mẹ về tương lai và sự an toàn của anh. Ý nghĩ rằng việc thi trượt trường y bằng cách nào đó đang dẫn lối cho sự hủy diệt gần kề của anh. Anh ghét việc làm mẹ thất vọng. Ngay từ đầu đã luôn là mẹ và anh chống lại thế giới này; những niềm vui của bà trong đời đến từ những thành công bé nhỏ của anh mới ít ỏi làm sao. Khi anh nghĩ về gương mặt mẹ ngày anh nhật kết quả, lòng anh tràn ngập cảm giác tội lỗi và nhục nhã – anh đã khiến mẹ muộn phiền.”
“Anh không mở lời được với cô, vì anh là một kẻ hèn nhát. Một kẻ hèn nhát, một thất bại của tạo hóa. Một kẻ thất học. Một sinh viên samurai vô chủ. Một niềm thất vọng với người mẹ bận rộn, và người cha nhiếp ảnh gia chiến trường đã mất.”
Về bà Ayako:
“Dù mưa hay tuyết, nắng hay gió, chẳng gì ngăn được bà Ayako đi bộ trên con đường leo qua đỉnh núi. Ngày nào bà cũng đi con đường ấy – con đường dài quanh co dẫn lên sườn núi, cắt ngang qua Thiên Quang Tự, đi tuốt lên đỉnh núi. Từ trên đỉnh, bà sẽ phóng tầm mắt ra thị trấn và những dãy núi bao quanh, thán phục cảnh tượng ấy. Vào những ngày ẩm ướt và nhiều gió, bà sẽ mặc một chiếc áo khoác tonbi bên ngoài bộ kimono và mang theo cây ô. Vào ngày nắng nóng, bà sẽ đội một chiếc mũ che nắng và mang theo cây quạt trong thắt lưng obi của mình.
Sau khi đã ngắm nhìn cảnh ấy bà sẽ đi xuống, bà thường qua nơi mà dân địa phương hay gọi là ‘Neko no Hosomichi - Hẻm mèo’. Tới đó rồi bà sẽ lấy từ trong túi ra những hộp cá ngừ và những mẩu thanh cua cho lũ mèo ăn.
Trong khi cho chúng ăn, bà sẽ vuốt ve và cưng nựng từng con một. Những con bạo dạn sẽ nằm ngửa trên con đường rải sỏi xám cho phép bà gãi gãi bụng mình. Bà đặt biệt danh cho từng con, nhưng con bà thực sự thích nhất là một con mèo mun chột một bên mắt và có chùm lông tròn màu trắng trên ngực, con mèo được bà đặt tên là Coltrane, theo tên nhạc sĩ jazz mà bà yêu thích nhất. Ngày nào mà Coltrane xuất hiện để được vuốt ve và gây phiền toái thì với Ayako đó là ngày tốt lành.”
—
“Thấy mình cận kề cái chết đến vậy, bà chợt nhận ra bà chưa sẵn sàng để chết. Bà cảm nghiệm được sự choáng váng và diệu kỳ của thế gian mình đang sống. Sự tồn tại mới đáng kinh ngạc làm sao. Cái xác suất để ta có mặt ở đây, để sống sót trên cái góc nhỏ bé của hành tinh này.”
Về những điều bà Ayako dạy cho Kyo:
“Nhưng chẳng phải sẽ hay hơn nếu cháu để tác phẩm dựa nhiều hơn vào cuộc đời của chính mình? Vì cháu đâu muốn chỉ là kể lại những gì Basho đã nói phải không? Cháu muốn kể một điều gì mới.”
—
“Điều gì khiến con ếch của Basho đặc biệt thế ạ?”
“Chà,” bà Ayako chống cằm, tựa khuỷu tay lên bàn. “Trước bài thơ này, mọi bài haiku có ếch xuất hiện đều đang hát. Loài ếch kêu ầm ĩ mỗi tiết xuân, ai cũng biết thế cả. Cho nên ếch có tiếng là một anh bạn ồn ào, trong thơ ca nghệ thuật nó lúc nào cũng hát như ca sĩ. Đó là lí do ta có những bức tranh cổ đáng yêu về lũ ếch chơi nhạc cụ cùng nhau, miệng mở to ca hát.”
…
“Cho nên khi ta nghe thấy có con ếch ở câu thứ hai trong bài thơ, người đọc sẽ chờ con ếch hát. Nhưng Basho không để điều đó diễn ra – ông lật đổ kỳ vọng của người nghe. Trước khi cháu để ý thì con ếch đã nhảy thẳng xuống ao, và tất cả những gì còn lại chỉ là thanh âm lặng lẽ của nước. Không có bài ca của ếch, chỉ có những gợn sóng nhẹ nhàng trên mặt ao cũ.”
“Thế là Basho phá vỡ những quy tắc ạ?”
“Cháu có thể nói vậy. Ông ấy đã làm một điều gì đó khác biệt. Những nhà thơ khác đều khiến lũ ếch của mình ca hát, nhưng Basho khiến con ếch của mình im lặng. Đôi khi, điều không được nói ra cũng quan trọng hệt như điều được nói ra.”
—
“Chà, cuộc đi dạo sẽ chẳng lý thú gì nếu chúng ta ra ngoài trong cơn mưa như trút đúng không ạ?”
“Bà chẳng biết,” bà Ayako đáp trả. “Phải không? Xem chừng cháu đã quyết định dù còn chưa ra ngoài. Và ai bảo mọi thứ phải lý thú cơ chứ?”
… Ở xa xa, anh thấy một khoảng trống giữa những quầng mây và mặt trời ló ra. Những tia sáng lọt xuống từ sau những đám mây giông đen kịt và chúng chiếu xuống những vạt biển, khiến biển lấp lánh, xoay tròn, óng ánh trong ánh sáng lung linh.”
“Chẳng chịu khuất phục trước mưa to/ chẳng chịu thua cuộc cùng gió lớn,”
—
“Bà biết rất nhiều về thất bại. Bà biết về mất mát. Bà biết kha khá về lao động chăm chỉ và thành quả. Và bà biết mọi thứ cần biết về việc không bỏ cuộc. Có lẽ có những điều từ chính đời bà, những kinh nghiệm của chính bà; có lẽ vài điều trong số những thứ bà đã học được có thể giúp thằng bé lúc này. Bà chỉ cần phiên dịch nó sang một thứ ngôn ngữ anh hiểu được.”
—
Hôm nay, cháu có thể cảm thấy mình chẳng làm được gì, hoặc cháu đang vật lộn, nhưng ngày hôm nay sẽ qua, như luôn vậy. Tối nay, mặt trời sẽ lặn, mặt trăng sẽ mọc. Nhưng ngày mai lại mang tới một ngày mới. Một khởi đầu mới, và một cái nhìn mới về cuộc đời.
Đời là thế, Kyo ạ. Có thăng có trầm.” Bà mỉm cười. “Yama ari tani ari - có núi cao, có thung sâu.”
Nhưng điểu quan trọng nhất là cháu phải xuất hiện, lấy ra cây bút của mình, vẽ một điều gì nho nhỏ, vẽ từng nét một. Đó là cách ta đạt được điều gì đó lớn lao. Không phải nhờ một cú đại nhảy vọt, mà là qua một vạn bước chân tí xíu.
—
“Anh bắt đầu hình dung ra cảnh trái bom rơi xuống thành phố. Anh hình dung nó lại rơi xuống, đêm qua, quét sạch và giết sạch tất thảy mọi người trong hộp đêm đang khiêu vũ, tất thảy những người đứng trên bờ sông cầu nguyện. Thật khó hình dung; tất thảy những cuộc đời phong phú và rực rỡ ấy đột ngột va vào cái chết. Làm sao mà phần còn lại của nhân loại này có thể tiếp tục vận hành khi biết con người ta có khả năng làm những điều khủng khiếp đến vậy với nhau? Làm sao có ai đó sống tiếp nổi đây? Anh bắt đầu nghĩ về những gì cha anh đã chứng kiến trong đời của một nhiếp ảnh gia chiến trường. Thảo nào ông đã làm như thế.”
—
“Nhiều người ngoài đó chẳng có giấc mơ, chẳng có tham vọng, họ chỉ đi làm rồi đi ngủ mỗi đêm, và điều đó khiến họ hạnh phúc. Và hoàn toàn chẳng có gì sai với điều đó, cháu biết đấy, mỗi người mỗi ưu tiên. Junin toiro. Thành ngữ cổ. Chín người mười ý. Nhưng khi cháu gặp ai đó thực sự quan tâm tới một điều gì đó theo cách giống như cháu, bà không biết, nhưng có gì đó thật quyến rũ ở đó.”
—
“Có rất nhiều con đường để lên đỉnh núi, như bà Ayako biết rõ. Và thời gian cùng trải nghiệm đã dạy bà rằng, vài con đường thì dễ dàng hơn những con đường khác. Bà phải giúp anh leo lên đỉnh núi, và nếu như bà có thể đi thay phần anh và phạm sai lầm thay phần anh thì mọi thứ sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhưng điều đó là không thể.
Sau rốt, mỗi người trong đời này phải tự tạo nên hành trình của bản thân. Một mình.”
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ