Nuôi dưỡng tâm hồn - khơi nguồn tri thức

Góp Ý

Thời thanh niên của Trần Bạch Đằng.
Cập nhật ngày: 25/07/2006

Nhà nghiên cứu Trần Bạch ĐằngNhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo nổi tiếng Trần Bạch Đằng tên thật Trương Gia Triều, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1926, tại xã Thạnh Hưng (nay là Hòa Hưng). Quê gốc: huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Nhân kỷ niệm 80 năm ngày sinh NXB Trẻ ra mắt Hồi Ký ‘Trần Bạch Đằng - Cuộc đời và ký ức’, để hiểu quá trình hoạt động cách mạng cũng như tình duyên nồng thắm giữa ông và bà Tôn Thị Hưởng.

Sinh ra trong một gia đình Nho học ở Bến Tre, người ông - Cúc Nông Trương Gia Mô theo nghĩa xác đáng đúng là kẻ sĩ. Gốc gác Gia Định, con của tuần vũ Trương Gia Hội. Bản thân Trần Bạch Đằng là người lao động. Tham gia cách mạng từ năm học lớp nhất bậc tiểu học, ra báo tay, làm liên lạc. Năm 1943, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới 17 tuổi, tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa. Kháng chiến chống Pháp, ông phụ trách công tác tuyên truyền của Đảng, làm báo “Chống xâm lăng” của Sài Gòn, rồi Tổng biên tập báo “Nhân dân miền Nam”.

Là đại biểu chính thức của Đảng bộ Nam bộ đi dự Đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ II (1949), bị giặc bắt trên đường đi tại Dốc Mỏ (Nam Tuy Hòa), bị kết án tử hình, sau đó vượt ngục… Sau hiệp định Giơ-ne-vơ ông ở lại miền Nam phụ trách công tác Đảng ở thành phố Sài Gòn, phụ trách công tác tuyên huấn của Trung ương cục, Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật miền Nam. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập và nhiều huân chương cao quý khác. Thời thanh niên của Trần Bạch Đằng là thời của một người lính, một người tình.

Người lính can trường

Ngày 8-4-1949, khi đang vượt Dốc Mỏ (Nam Tuy Hòa), đoàn rơi vào ổ phục kích của quân Pháp và bị bắt. Trong bảy tháng, ông bị địch tra tấn hành hạ rất dã man trong các nhà tù ở miền Trung, bót Catinat, lao Gia Định, đồn Phú Lâm, căn cứ Mỹ Tho, trại giam Gò Công và cuối cùng là khám Vĩnh Lợi ở chợ Giồng, Gò Công.

... Anh em tù đã tìm cách vượt ngục. Địch dọa: hễ một người tù bỏ trốn thì chúng sẽ đem một người tù khác ra xử bắn. Do đó, anh em tù không thể trốn lẻ tẻ mà phải tổ chức tất cả cùng vượt ngục: “Ủy ban giải thoát tù nhân” được thành lập. Trần Bạch Đằng làm chủ tịch và chỉ đạo kế hoạch vượt ngục, giao những anh em từng làm bộ đội làm trinh sát tìm cách cắt rào kẽm gai, gỡ lựu đạn…, phân công một nhóm khác đục tường. Ngày vượt ngục được ấn định vào dịp lễ chiến thắng (Fête de la Victoire), ngày 11-11, tức ngày Đức đầu hàng Pháp tại khu rừng Copiègne. Hằng năm, đến ngày lễ này, quân Pháp đều tổ chức ăn uống, nhảy đầm, thường lơ là trong việc canh gác tù nhân. Đúng như dự đoán của anh em tù, hầu hết lính canh trại giam đều say khướt trong tối 11-11-1949.

Trần Bạch Đằng viết bản tuyên bố: “Vì bổn phận, chúng tôi còn phải tiếp tục chiến đấu nên chúng tôi vượt ngục. Chúng tôi cảm ơn anh em binh sĩ người Việt và hẹn gặp bọn Tây ở chiến trường. Thay mặt Ủy ban giải thoát tù nhân. Chủ tịch Trần Bạch Đằng, dán lên vách phòng giam. Đúng 11 giờ đêm, cuộc vượt ngục bắt đầu. Là người ra trong tốp sau cùng, vì cái lỗ khoét ở tường hơi nhỏ, bụng và lưng ông trầy trụa. Sau khi qua tường, tụt xuống hào nước rồi trườn theo đường đã vạch sẵn, qua khỏi vòng rào, lẫn giữa các luống khoai. Quay đầu nhìn lại tháp canh lần cuối, thấy lỗ châu mai đen ngòm dường như đang hướng về phía ông. Sau hơn một giờ lội ruộng, toàn thể 42 tù nhân khám Vĩnh Lợi đến làng Bình Phục Nhứt. Được dân quân du kích ở đây chiêu đãi một bữa cháo lòng, anh em tiếp tục lên đường, đề phòng truy kích. Đến Qươn Long, mọi người chia tay, mỗi người tìm về đơn vị của mình để tiếp tục hoạt động (mỗi người một giấy tay của Trần Bạch Đằng trình cho địa phương). Nhờ sự giúp đỡ của Tỉnh ủy Mỹ Tho, ông về chiến khu Tháp Mười, “thủ đô” của cuộc kháng chiến Nam bộ lúc bấy giờ.

Người tình đằm thắm

Tôn Thị Hưởng là cô gái xã Lương Hòa Lạc, sinh trong một gia đình có sáu anh chị em và là người học cao nhất trong nhà. Là nữ sinh Áo Tím ở Sài Gòn (nay là trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai), lấy xong bằng thành chung, Tôn Thị Hưởng học một năm sư phạm và bắt đầu theo nghề của cha – ông giáo Tôn Văn Long. Là một trong bốn gia đình của xã Lương Hòa Lạc đã “toàn gia kháng chiến”. Cách mạng tháng Tám rồi cuộc khánh chiến Nam bộ thay đổi nếp sống của gia đình. Tôn Thị Hưởng lúc đầu tham gia kháng chiến, công tác ở Hội Phụ nữ cứu quốc xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo. Ra Đồng Tháp Mười, từ năm 1947, Tôn Thị Hưởng lấy tên Nguyễn Thị Chơn, cái tên thường dùng cho đến tận hôm nay.

Sau khi vượt ngục trở về, năm 1950, Trần Bạch Đằng được phân công phụ trách Đoàn Thanh niên cứu quốc Nam bộ. Chính tại cơ quan Xứ Đoàn, hai người gặp nhau… Chơn rất yêu song cũng rất “rầy” về cái “danh tiếng” mà đồng chí Lê Đức Thọ gọi Trần Bạch Đồng là “thằng trời đánh!”. Có lẽ sự tương phản này càng khiến hai tâm hồn thắm thiết với nhau. Trong thời gian đính hôn và khi cưới, cô Chơn thường trách yêu: “Bây giờ có em, anh đừng… “trời đánh” nữa”. Nói rồi cười. Khi đính hôn, em trai Chơn gửi cho chị mình một bức thư chúc mừng, trong đó có câu bằng tiếng Pháp: “Le bonheur de I’un c’est le malheur de I’auter” (Hạnh phúc của người này là bất hạnh của người khác). Đúng là bên cạnh một tài năng luôn có một điểm tựa vững chắc.

... Khi vợ ông qua đời, ông xúc động viết: “Nhà tôi với tôi vừa là vợ, vừa là bạn, vừa là đồng chí, cho nên nhà tôi chính là tôi, người tôi hết sức biết ơn, hết sức quý trọng, là chỗ dựa tinh thần lớn lao trong những bước đường sóng gió mà tôi trải qua. Nhà tôi bao giờ cũng giúp cho tôi những lời khuyên chính xác trong cư xử, đồng thời không bao giờ tham gia vào công việc tôi phụ trách.

Nhà tôi nói với bè bạn: “Ổng mà mất trước tôi, tôi sẽ dựng một mộ bia đề hàng chữ: Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Nhiều lần nhà tôi tự hào ghép tên của chúng tôi dưới các bài thơ: Hưởng Triều. Và chính nhà tôi tôn trọng họ Trương Gia của tôi. Từ nay, ai sẽ nói được điều đó với tôi? Tôi sẽ khắc vào bia mộ nhà tôi - hoàn toàn không quá đáng - hai câu trong thư nhà tôi nói với chồng:

“Giữa ngàn thác lũ nghiêng trời đất
Mà cánh đào kia vẫn ngược dòng…”.

Không phải ngẫu nhiên khi nhà tôi chọn cho mình tên Chơn - chơn thật (chân thật). Nguyên tắc sống của nhà tôi là chơn thật. Cho nên, tiễn nhà tôi vào chốn vĩnh hằng là tiễn chính một nửa con người của tôi. Những gì tôi làm được từ nửa thế kỷ nay đồng thời cũng là công lao của nhà tôi, kể cả tình cảm của bạn bè dành cho tôi cũng từ tình cảm dành cho nhà tôi. Chia tay! Không có gì cay đắng hơn cuộc chia tay này…”.
 
NGUYỄN TÝ
(Theo CAO, 17/7/2006)
Các Tin Tức Khác