Việt Nam là một trong những thành công về kinh tế trong 30 năm qua. Mặc dù hiện nay, với mức thu nhập bình quân đầu người khoảng 3.400 đôla theo sức mua tương đương, tuy chưa phải là một nước giàu, song Việt Nam đã đạt được những thành tích giảm nghèo nổi bật: chỉ trong vòng ba thập kỷ, biến một quốc gia trong đó tình trạng nghèo là phổ biến trở thành một quốc gia với tỷ lệ nghèo chỉ còn khoảng 10% theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới. Bản thân thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam đã tăng gấp 10 lần trong giai đoạn này.
Tại sao vào thời điểm năm 1980, Việt Nam lại nghèo như vậy? Tại sao sau đó Việt Nam lại phát triển nhanh chóng? Các nhà kinh tế học và
các nhà khoa học xã hội đã đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau cho những
sự kiện kiểu này. Một số
người cho rằng sự thành công kinh
tế của một quốc
gia hoặc khu vực được xác định bởi vị trí địa
lý hay điều
kiện sinh thái của nó. Các
học giả này
đặc biệt quan tâm đến việc một quốc gia có nằm trong khu vực nhiệt đới hay
không. Theo
họ, vì Việt Nam nằm
trong vùng nhiệt đới giữa hạ chí tuyến và xích đạo nên tiềm năng kinh tế nội tại
của nó chỉ có giới hạn. Nhưng sự
thay đổi sâu sắc trong quỹ đạo kinh tế của Việt Nam trong 30 năm qua không hề liên quan tới sự
thay đổi vị trí địa lý. Một số người khác sẽ lập
luận rằng văn hóa của một dân tộc, các chuẩn mực xã hội,
các giá trị,
hay đạo đức làm việc sẽ quyết định sự thành công hay thất bại
về kinh tế. Nhưng một lần nữa, văn hóa Việt
Nam đã không thay đổi kể từ
thập niên 1980 trở lại đây. Cuối cùng, nếu bạn tham dự các lớp kinh tế phát triển ở các khoa kinh tế
học hàng đầu thế giới, bạn
sẽ được học
là chúng ta đơn giản không biết tại sao Việt Nam đã nghèo trong gần suốt lịch sử
của mình nhưng gần đây lại tăng trưởng nhanh chóng. Có lẽ là
do cuối cùng Việt Nam cũng
có được những nhà kinh tế học tài ba, hoặc nhờ đổi mới tư duy, hoặc đơn giản chỉ
là do may mắn.
Cuốn sách này cung cấp các công cụ thích hợp để hiểu tại sao Việt Nam đã từng rất nghèo và tại sao tình trạng nghèo này bắt đầu
thay đổi từ
thập niên 1980. Nó cũng giúp chúng ta hiểu được
liệu những thay đổi diễn ra ở Việt Nam
trong ba thập
niên vừa qua có bền vững hay
không. Lịch
sử trì trệ và sự tăng trưởng gần đây ở Việt
Nam không xuất phát từ các nguyên nhân địa lý hay văn hóa mà xuất
phát từ những quy tắc - hay thể chế - mà bản
thân xã hội Việt Nam đã tạo ra. Để
thành công về kinh tế, xã hội cần
phải tạo ra được một tập hợp các
thể
chế kinh tế có thể thúc đẩy tài năng, kỹ
năng, sự sáng tạo và năng lượng của người dân, và những năng lực này được phân phối một cách
rộng rãi trong toàn xã hội, nhờ
đó tạo thành một đặc tính quan trọng - tính dung hợp - của tập hợp thể chế kinh
tế có
khả năng tạo ra sự thịnh vượng. Tính dung hợp của tập
hợp thể chế này tạo ra các cơ
hội bình đẳng về kinh tế cho tất cả mọi người,
đem lại cho họ quyền sở
hữu tài sản, quyền tiếp cận với thị
trường, cơ hội giáo dục, và bình đẳng trước pháp luật. Chẳng hạn như lịch sử nghèo đói của Việt
Nam trong thời phong kiến hoặc dưới
thời Pháp thuộc có thể được giải thích bằng thực tế là các thể chế kinh tế trong những thời kỳ này không có tính dung hợp
mà có tính tước đoạt: những thể chế được thiết kế để hạn chế cơ hội, để tạo
ra ân
sủng và độc quyền
cho một vài nhóm thiểu số và bắt đa
số còn lại phải trả giá. Họ dập tắt cơ hội của
nhiều người,
trao đặc quyền cho
một số thiểu số trong giới quyền thế bản địa hay cho
thực dân Pháp.
Nhưng tại sao trong lịch sử Việt Nam,
giống như phần lớn thế giới, lại tồn tại các thể chế kinh tế
có tính
chiếm đoạt? Có
thể thấy điều này rõ nhất khi xem xét trường hợp của
thực dân Pháp. Với
công nghệ quân sự ưu việt và sự thống trị chính trị, người Pháp đã có thể áp đặt một tập hợp
các quy tắc tạo đặc quyền cho chính
họ và tay sai. Vì vậy, chìa
khóa để nhận biết một thể
chế kinh tế có tính dung hợp hay chiếm đoạt nằm ở bản chất của chính trị và quyền lực chính trị. Trong nhà nước thuộc địa Pháp, quyền lực chính
trị đã được phân phối
trong phạm vi hẹp, và nhà nước
được sử dụng để ủng hộ các lợi ích đặc biệt -
do vậy thể chế chính trị có tính chiếm đoạt. Người Việt Nam, mặc dù chiếm đa số,
nhưng đã bị trục xuất ra khỏi địa
hạt quyền lực chính trị và bị tước đoạt cơ hội
kinh tế. Điều này trên thực
tế cũng đã
từng tồn tại,
ngay cả trước khi thực dân Pháp xuất hiện, chỉ khác là quyền lực được trao cho
giới quyền thế trong nước chứ không phải nước ngoài.
Trong cuốn sách này,
chúng tôi chứng minh rằng trong hầu
hết mọi trường hợp, một nước sở dĩ nghèo là do họ có các thể chế kinh tế chiếm
đoạt, bắt nguồn từ các thể chế chính trị chiếm đoạt. Còn các
nước giàu sở
dĩ giàu là bởi vì họ có các thể chế chính trị dung hợp, với nhà nước mạnh và có
trách nhiệm giải trình, và quyền lực chính trị được phân phối một cách rộng rãi, và nhờ
đó tạo ra các thể chế kinh tế dung
hợp.
Để trở
nên giàu có, một
nước nghèo phải
chuyển đổi từ các thể chế chiếm đoạt sang
dung hợp. Trong
địa hạt kinh tế, đây chính là căn nguyên tạo ra tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam gần đây. Sau khi đánh đổ chế
độ thực dân và thống nhất
đất nước, Việt Nam đã tạo
ra một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong đó nhà nước sở hữu toàn bộ đất đai và hầu hết các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, các thử nghiệm với nền kinh tế chỉ huy trong thập niên 1970 và đầu thập
niên 1980 đã
cho thấy
những hạn chế kinh tế nghiêm trọng
của mô hình này. Trong khi đó, quá trình chuyển đổi của Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình cho thấy rằng sự ra đời của các tổ chức kinh tế dung
hợp hơn đã tạo ra tăng trưởng kinh tế trong
khi vẫn giữ được quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Chính
sách Đổi mới của Chính
phủ Việt Nam từ năm 1986
được
đưa ra nhằm chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.” Chính sách kinh tế Đổi mới đã
đem lại những khuyến khích có tính thị
trường, giải
tán nông nghiệp tập thể, loại bỏ
kiểm soát giá cả hàng nông sản, và cho phép nông dân tiêu thụ
hàng hóa của họ trên thị trường. Giống như Trung Quốc,
phong trào chuyển sang các thể chế
dung hợp này đã thành công và bắt đầu phát huy những tài năng tiềm ẩn to lớn nhưng chưa được giải phóng của người dân. Những cải cách này cùng với những cải cách sau đó đã khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài. Như vậy, tăng
trưởng kinh tế ở
Việt Nam từ thập niên 1980 đã được thúc đẩy
bởi phong trào chuyển sang các thể chế
kinh tế dung hợp hơn, mặc dù quá
trình chuyển đổi này vẫn còn một chặng đường dài
trước mắt.
Việt Nam sẽ phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách
một cách toàn diện nếu muốn duy trì được đà tăng trưởng hiện nay và gia nhập hàng
ngũ những quốc gia giàu mạnh nhất thế giới.
Daron Acemoglu và James
A. Robinson