Josh Newman vươn người và bám lòng bàn tay phải lên bức tường đá lạnh lẽo để giữ thăng bằng. Chuyện gì vừa xảy ra?
Có một lúc cậu đang đứng trong cửa tiệm của Bà Phù thủy Endor tại
“Chúng ta đang ở
“
“Hành tinh này chằng chịt những đường kẻ năng lượng vô hình đôi khi được gọi là đường tuyến (ley lines) hoặc hàng đá (cursus),” Flamel giải thích. Ông ta bắt chéo hai ngón trỏ với nhau. “Ở đâu có hai hay nhiều hơn hai đường kẻ giao nhau thì ở đó xuất hiện một cổng tuyến. Những cái cổng đó bây giờ cực kỳ hiếm, nhưng vào thời cổ xưa Giống loài Elder thường dùng chúng để đi từ bên này sang bên kia trái đất chỉ trong chớp mắt – như chúng ta vừa đi. Bà Phù thủy đã mở cổng tuyến ở Ojai và chúng ta đã tới mút đầu bên kia, tại
“Cổng tuyến: tôi ghét chúng,” Scatty lầm bầm. Dưới ánh đèn ảm đạm, nước da nhợt nhạt lốm đốm tàn nhang của cô trông xanh lè. “Em có bị say sóng không?” Cô hỏi.
Josh lắc đầu. “Không bao giờ.”
Sophie ngẩng lên khỏi chỗ, tựa người vào cánh cửa.
“Ba xạo! Nó còn say sóng trong hồ bơi nữa kìa.” Cô bé cười toe, rồi lại áp một bên mặt vào tấm gỗ mát lạnh.
“Say sóng,” Scatty lầm bầm. “Đó chính xác là những gì mình đang cảm thấy. Thật tồi tệ.”
Sophie quay đầu lại nhìn Nhà Giả kim. “Chú có biết là chúng ta đang ở đâu tại
“Một nơi rất cũ kỹ, chú đoán vậy,” Flamel nói, đi đến bên cô bé đang đứng ngay cánh cửa. Ông nghiêng một bên đầu áp vào tấm cửa và lắng nghe.
Sophie bước lui lại. “Chưa chắc đâu,” cô bé ngập ngừng.
“Sao lại chưa?” Josh hỏi. Cậu liếc quanh căn phòng nhỏ xíu bừa bộn. Rõ ràng trông nó đúng là nằm trong một tòa nhà cũ mèm.
Sophie lắc đầu. “Không biết nữa... chỉ là không cảm thấy nó cũ.” Cô đưa lòng bàn tay chạm vào bức tường, rồi đột ngột rụt mạnh trở lại.
“Chị bị gì vậy?” Josh thì thào.
Sophie áp đầu sát vào tường lần nữa. “Chị nghe được nhiều tiếng nói, những tiếng hát và có gì như tiếng nhạc từ đàn organ.”
Josh nhún vai. “Em chẳng nghe được gì.” Cậu ngừng lại, chợt nhận ra sự khác biệt lớn lao giữa cậu với người chị sinh đôi. Phép thuật tiềm ẩn của Sophie đã được Hekate Đánh thức, và bây giờ cô quá sức nhạy cảm cả về thị giác và thính giác, khứu giác, xúc giác và vị giác.
“Chị nghe được.” Sophie nhấc tay khỏi bức tường đá và âm thanh trong đầu cô nhạt dần.
“Cháu đang nghe tiếng vọng bóng thôi,” Flamel giải thích. “Đó chỉ là những tiếng ồn do tòa nhà hút ngấm vào, được lưu giữ lại và trở thành chính bản thân công trình kiến trúc đó.”
“Đây là một ngôi nhà thờ,” Sophie nói dứt khoát, rồi cau mày. “Một ngôi nhà thờ mới... hiện đại, cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi. Nhưng lại được xây dựng trên một nền đất cũ xưa hơn nó nhiều, rất nhiều.”
Flamel dừng ngay nơi cánh cửa gỗ và ngoái nhìn ra đằng sau mình. Dưới nguồn sáng tù mù trên đầu, nét mặt ông bỗng trở nên nhọn hoắt, đầy góc cạnh, trông giống như một cái đầu lâu dễ sợ, hai hốc mắt ông hoàn toàn chìm trong bóng tối.” Có nhiều nhà thờ ở
“Khoan đã,” Josh nói nhanh. “Chú không nghĩ là sẽ có một dạng báo động nào đó sao?”
“Ồ, không chắc đâu,” Nicholas tự tin nói. “Ai mà đặt báo động nơi nhà kho trong nhà thờ?” ông ta vừa hỏi, vừa giật mở tung cánh cửa.
Một hồi chuông báo động đột ngột ré lên trong không khí, âm thanh vang đi và dội lại tắt ngấm vào những phiến đá lát và bức tường. Đèn báo động bật đỏ lòm nhấp nháy lóe sáng từng hồi.
Scatty thở ra và càu nhàu gì đó bằng một loại ngôn ngữ Celt cổ. “Ông chẳng đã có lần bảo tôi phải chờ đợi trước khi cử động, nhìn ngó trước khi tiến bước và quan sát tất cả những gì xung quanh đó sao?” Cô hỏi gặng.
Nicholas lắc đầu và thở dài vì cái lỗi ngu ngốc của mình. “Chắc là tôi già lắm rồi,” ông cũng nói bằng ngôn ngữ đó. Nhưng không còn thời gian để hối lỗi. “Đi thôi!” ông ta hét lớn át cả tiếng báo động inh ỏi, và bổ nhào xuống hành lang. Sophie và Josh theo sát đằng sau, trong khi Scatty đi cuối cùng, bước chầm chậm và cứ mỗi bước cô lại cằn nhằn.
Cánh cửa mở vào một hành lang hẹp bằng đá dẫn ra một cánh cửa gỗ khác. Không chút ngập ngừng, Flamel xô vào cánh cửa thứ hai – và ngay tức khắc một hồi báo động mới lại rú lên. Ông rẽ trái lao vào một khoảng không gian trống trải rộng lớn đầy mùi hương trầm cũ kỹ, xi đánh sàn và sáp ong. Những dãy nến sáng màu vàng ánh kim tỏa khắp lên tường, trên sàn nhà và, kết hợp với ánh đèn báo động, cho thấy hai cánh cửa đồ sộ có hàng chữ LỐI RA ở bên trên. Flamel phóng về phía đó, tiếng bước chân ông nện vang.
“Đừng chạm vào –” Josh thốt lên, nhưng Nicholas Flamel đã chộp lấy nắm cửa và kéo mạnh.
Hồi chuông báo động thứ ba – lớn hơn nhiều so với mấy lần trước – chợt tắt ngấm, và một bóng đèn đỏ chói phía trên cánh cửa bắt đầu chớp tắt liên tục.
“Đã bảo chú đừng chạm vào,” Josh cằn nhằn.
“Chú không hiểu nổi – tại sao nó không mở sẵn?” Flamel hỏi, hét toáng lên để mọi người có thể nghe được trong tiếng ầm ĩ kinh hồn. “Nhà thờ phải luôn luôn mở cửa chứ.” Ông ta quay người nhìn quanh. “Mọi người đâu cả? Mấy giờ rồi?” ông hỏi, tựa như có một ý nghĩ vừa ập đến với ông.
“Phải mất bao lâu để đi từ nơi này đến nơi kia bằng cổng tuyến?” Cô bé hỏi.
“Ngay lập tức.”
“Và chú chắc chắn là chúng ta đang ở
“Chắc chắn.”
Sophie nhìn đồng hồ và làm một bài toán rất nhanh. “
Flamel gật đầu, chợt hiểu ra.
“Bây giờ là bốn giờ sáng; hèn gì nhà thờ đóng cửa,” Sophie nói.
“Cảnh sát sẽ lên đường tới đây,” Scatty rầu rĩ, giơ tay vớ lấy chiếc nhị khúc của mình. “Tôi ghét phải đánh nhau khi trong người không khỏe,” cô lẩm bẩm.
“Chúng ta làm gì bây giờ?” Josh hỏi gặng, nỗi sợ hãi dâng lên trong tiếng nói của cậu.
“Cháu có thể thử dùng gió phá vỡ mấy cánh cửa này thành từng mảnh,” Sophie đề nghị một cách e dè. Cô bé không chắc mình còn sức lực để gọi gió liền như vậy một lần nữa. Cô đã dùng năng lượng pháp thuật mới của mình để quật ngã người bất tử ở Ojai, nhưng nỗ lực đó đã khiến cô hoàn toàn mệt lử.
“Chú cấm đó,” Flamel hét lên, khuôn mặt ông chìm trong những vùng bóng tối đỏ thẫm và đen thui. Ông quay lại và chỉ, hướng ngón tay của ông băng ngang qua những hàng ghế dài có lưng tựa đi thẳng về phía một cái bàn thờ trang trí công phu nổi bật một họa tiết hình mảng bằng cẩm thạch trắng. Ánh nến phả vào một bức tranh rất phức tạp được khảm bằng các mảnh ghép màu xanh da trời và vàng ánh kim lấp lánh trong nóc vòm phía trên bàn thờ. “Đây là một di tích quốc gia; chú không để cháu phá hủy nó đâu.”
“Chúng ta đang ở đâu vậy?” hai chị em sinh đôi vừa đồng thanh thốt lên vừa nhìn quanh công trình. Bây giờ mắt chúng đã quen với bóng tối, chúng nhận ra rằng công trình này rất đồ sộ. Chúng có thể phân biệt từng cây cột cao vút làm thành vùng bóng tối trên đầu và nhìn thấy được bóng của những chiếc bàn thờ phụ nho nhỏ, bóng những bức tượng đặt trong các góc yên tĩnh và vô số những hàng nến.
“Đây là,” Flamel thông báo một cách tự hào, “nhà thờ Sacré-Coeur.”
Ngồi đằng sau chiếc limousine của mình, Niccolò Machiavelli gõ tọa độ vào chiếc máy tính xách tay và chăm chú nhìn vào màn hình nơi tấm bản đồ
Machiavelli bấm vào một phím, màn hình chuyển qua một sơ đồ đường tuyến chằng chịt khắp bản đồ thành phố. Ông ta tìm kiếm một đường kẻ kết nối với nước Mỹ. Cuối cùng ông ta cũng có cách giảm bớt con số có khả năng xuống còn sáu. Dùng một móng tay được cắt giũa hoàn hảo, ông lần theo hai đường kẻ nối thẳng từ Bờ Tây của Mỹ đến
Nhưng?
Đột nhiên, đêm
Cái đó. Nụ cười của Machiavelli thật đáng sợ. Ông ta kích hoạt một chương trình trên máy tính và chờ đợi trong khi chiếc ổ cứng quay tròn.
Nhập mật khẩu.
Những ngón tay ông ta gõ như lướt trên bàn phím: Discorsi sopra la prima deca di Tito Livio. Sẽ không ai phá được mật khẩu đó. Nó không nằm trong số các cuốn sách được xem là nổi tiếng hơn những cuốn khác của ông.
Một trang văn bản trông khá thông thường hiện ra, được viết bằng tiếng Latinh, Hy Lạp và Ý kết hợp với nhau. Từng có lần các nhà ma thuật đã cất giữ những câu thần chú và bùa phép của họ trong sổ ghi chép bằng tay được gọi là cuốn sổ đen, nhưng Machiavelli luôn luôn dùng công nghệ mới nhất. Ông thích cất những câu thần chú vào ổ cứng của mình hơn. Bây giờ chỉ cần một chút gì đó để khiến cho Flamel và đám bạn của y bận rộn trong lúc ông tập trung sức lực.
Josh tập trung nghe ngóng. “Cháu nghe có tiếng còi cảnh sát.”
“Có mười hai xe cảnh sát trực chỉ đường này,” Sophie nói, đầu cô nghiêng một bên, hai mắt nhắm lại như đang chăm chú lắng nghe.
“Mười hai? Làm sao chị nói vậy được?”
Sophie nhìn cậu em sinh đôi của mình. “Chị có thể phân biệt từng vị trí khác nhau của tiếng còi.”
“Chị có thể nói chúng tách bạch như vậy sao?” Cậu hỏi. Lại một lần nữa, cậu tự bắt gặp mình đang ngạc nhiên với mức độ hết sức nhạy cảm của chị cậu.
“Từng chiếc một,” cô nói.
“Chúng ta không được để cảnh sát bắt,” Flamel đanh thép xen vào. “Chúng ta không có hộ chiếu mà cũng chẳng có chứng cớ ngoại phạm. Phải ra khỏi đây ngay thôi!”
“Bằng cách nào?” cặp sinh đôi cùng hỏi một lượt.
Flamel lắc đầu. “Phải có một lối ra vào khác nữa...,” ông cất tiếng, và rồi chợt im bặt, cánh mũi nở ra.
Josh bứt rứt nhìn chằm chặp vào cả Sophie và Scatty vừa đột nhiên phản ứng với một thứ gì đó mà cậu không sao ngửi thấy được. “Cái gì... cái gì vậy chứ?” cậu hỏi dồn, và rồi thình lình cậu bắt được một luồng hơi rất thoảng nhẹ của cái gì như xạ hương pha lẫn với mùi khen khét. Đó là một loại mùi làm cậu liên tưởng đến sở thú.