Nuôi dưỡng tâm hồn - khơi nguồn tri thức

Góp Ý

Nữ phù thủy - Michael Scott
Cập nhật ngày: 15/03/2010

Giờ thì tôi thấy mình thật mệt mỏi, quá sức mệt mỏi. Và tôi đang già đi rất nhanh. Các khớp xương cứng nhắc, thị lực không còn tinh tường và tai phải căng ra mới nghe rõ được. Hơn năm ngày qua tôi buộc phải sử dụng năng lượng của mình, và điều đó đã làm quá trình già nua của tôi tăng tốc đáng kể. Tính ra tôi đã già đi ít nhất cả thập kỷ – có lẽ còn hơn thế – chỉ mới tính từ thứ năm tuần trước. Nếu tôi muốn sống, tôi phải lấy lại kỳ được Cuốn Sách của Abraham, và tôi không thể – thật tình là không dám – liều lĩnh sử dụng năng lượng của mình nữa.

      Tuy nhiên, Dee đang giữ cuốn Codex, và tôi biết mai mốt đây, buộc lòng tôi lại phải sử dụng luồng điện đang dần dần suy yếu của mình nữa rồi.

Tôi phải làm như vậy thôi, nếu vợ chồng chúng tôi muốn tồn tại.

Cứ mỗi lần sử dụng năng lượng là mỗi lần tôi tiến gần đến cái chết hơn... và một khi tôi chết đi, cả Perenelle cũng chết, thì không còn ai đứng lên đấu tranh chống lại Dee và các Elder Đen tối nữa hết. Khi chúng tôi chết rồi, thế giới sẽ phải gióng lên hồi chuông kết thúc.

Nhưng chúng tôi chưa chết được đâu.

Vả lại chúng tôi còn có cặp sinh đôi kia mà. Lần này là cặp sinh đôi thật, cặp song sinh đúng như huyền thoại với luồng điện tinh khiết vàng và bạc. Chừng nào cặp song sinh này còn sống được, tức là vẫn còn hy vọng.

Chúng tôi sẽ vào London. Tôi sợ thành phố này hơn mọi thành phố khác, vì đó chính là trung tâm quyền lực của Dee. Lần gần đây nhất tôi và Perenelle ở trong thành phố này là tháng Chín năm 1666, tay Pháp sư gần như đã thiêu rụi thành phố ra đất để cố bắt chúng tôi cho bằng được. Từ ấy đến nay, chúng tôi chưa bao giờ trở lại đây. London thu hút các Elder từ khắp nơi trên địa cầu: họ quy tụ về thành phố này nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trên trái đất. Ở đây, các Elder, Thế hệ Kế tiếp, và những người bất tử tha hồ di chuyển tự do trên khắp mọi nẻo đường mà không bị ai để ý, và tôi biết ít nhất có đến hơn một chục Vương quốc Bóng tối nằm rải rác trên khắp Quần đảo Anh.

Những đường năng lượng gặp nhau và cùng đổ về đây, trên vùng đất của người Celt cổ, nhiều hơn ở bất kỳ đất nước nào khác, và tôi cầu xin rằng với năng lượng được Đánh thức của cặp song sinh, chúng tôi có thể dùng những đường tuyến này để quay trở về San Francisco, quay về với Perenelle của tôi.

Và nơi đây cũng còn có sự hiện diện của Vua Gilgamesh, người bất tử già nhất thế giới. Kiến thức của ông hằng hà sa số và có thể sánh ngang với những bộ bách khoa toàn thư. Người ta cho rằng đã có lần ông từng là người canh giữ Cuốn Codex, thậm chí ông còn biết cả Abraham thần thoại, người đã tạo nên cuốn sách ấy. Truyền thuyết kể rằng Gilgamesh biết tất cả các ma thuật cơ bản – mặc dù, thật kỳ lạ, ông không bao giờ sở hữu năng lượng để sử dụng chúng. Nhà Vua không hề có luồng điện. Tôi thường băn khoăn tự hỏi không biết điều đó giống như cái gì đây nữa: hiểu rõ quá nhiều thứ đến mức không thể tin được, có quyền truy cập kho tàng khôn ngoan thông thái của những người cổ xưa, biết nhiều mật khẩu và thần chú có sức mạnh biến thế giới này thành thiên đường như trước đây... song lại không thể sử dụng những thứ ấy.

Tôi đã nói với Sophie và Josh rằng tôi cần Gilgamesh huấn luyện Pháp thuật Nước cho hai đứa và tìm được một đường tuyến sẽ đưa chúng tôi về nhà. Nhưng hai đứa không hề biết rằng quyết định này thật sự là một canh bạc liều mạng; nếu nhà Vua từ chối, có nghĩa là chúng tôi sẽ bị mắc kẹt ngay giữa lãnh địa của Dee, không cách gì trốn thoát được.

Một điều nữa tôi cũng chưa nói cho hai đứa biết, đó là Gilgamesh hết sức, hết sức điên khùng... và lần gần đây nhất khi chúng tôi có dịp gặp nhau, lúc ấy ông ta đã nghĩ rằng tôi đang cố giết chết ông ta.
 
CHƯƠNG 1
     "Có lẽ em trông thấy đúng bọn họ rồi.”
     Người thanh niên mặc chiếc áo parka* màu xanh lục, đứng ngay bên dưới chiếc đồng hồ tròn khổng lồ trong nhà ga St. Pancras, đang đưa chiếc điện thoại cầm tay ra xa khỏi tai và xem xét một tập tin.jpeg lòa nhòa hiện ra trên màn hình chữ nhật. Tay Pháp sư người Anh đã gởi tấm hình này một hai tiếng đồng hồ trước đây: ghi ngày 04/06, 11 giờ 59 phút 00 giây, màu sắc nhợt nhạt và mờ căm, bức ảnh lấm tấm nhiều hạt này trông giống như được lấy ra từ một camera an ninh đặt ở tầm cao khỏi đầu, cho thấy một ông già với mái tóc xám cắt ngắn, đi cùng với hai đứa nhỏ tuổi thiếu niên, đang trèo lên một chiếc xe lửa.

Vừa nhón chân, tên thanh niên vừa dõi mắt khắp nhà ga để tìm kiếm bộ ba mà hắn ta vừa thoáng thấy. Trong chốc lát, hắn ta nghĩ chắc mình đã để lạc mất họ trong đám đông như cám nghiền này, nhưng thậm chí nếu hắn ta có để mất, thì họ cũng không thể đi xa được: một trong những bà chị của hắn ta đã ở dưới cầu thang; một người khác ở ngoài đường phố, đang canh chừng lối ra vào.

Bây giờ, ông già và hai đứa thiếu niên kia đi đâu được nhỉ?

Cánh mũi nhỏ, hẹp nở rộng ra khi tên thanh niên cố phân loại giữa không biết bao nhiêu thứ mùi trong nhà ga. Hắn ta nhận ra và loại bỏ những mùi pha trộn của nhiều nòi giống người, vô số mùi nước hoa và chất khử mùi, dưới dạng chất keo hay sền sệt, mùi dầu mỡ béo ngậy của thức ăn chiên xào bay ra từ các tiệm ăn trong nhà ga, mùi hương đậm đặc của cà-phê và mùi đặc trưng của dầu bôi trơn dùng cho động cơ và các toa xe lửa. Hắn ta nhắm mắt và ngửa đầu ra sau, hai cánh mũi nở rộng một cách khác thường. Mấy mùi hương hắn ta đang tìm kiếm phải cũ kỹ hơn, hoang dại hơn, phải khác thường...

Ba!

Mùi bạc hà: khuấy gợn lên trong thoáng chốc

Mùi cam: thoang thoảng hết sức mơ hồ

Mùi vanilla: quyện vương thành dấu vết vô cùng mờ nhạt

Giấu đằng sau cặp kính râm hình chữ nhật, đôi đồng tử màu đen ngả xanh lơ của hắn ta giãn rộng ra. Hắn ta hít hít trong không khí, lần bám theo những mùi hương mỏng manh như những sợi tơ giăng qua khắp nhà ga bao la này. Giờ thì hắn ta bắt được rồi!

Người đàn ông đứng tuổi nơi bức hình trong điện thoại đang sải bước xuống phòng đợi của nhà ga sờ sờ ngay đằng trước hắn ta. Ông mặc quần jeans đen cùng với áo khoác da đầy vết trầy xước, tay trái xách một chiếc va-li nhỏ. Và hệt như trong bức ảnh đã chụp lúc nãy, theo sau ông là hai đứa nhỏ độ tuổi thiếu niên tóc vàng hoe, đủ giống nhau để được cho là anh em hay chị em gì đó. Đứa con trai cao hơn đứa con gái, và cả hai đều đeo ba-lô.

Tên thanh niên lấy điện thoại di động của hắn ta chụp ngay một tấm hình và gởi cho Tiến sĩ John Dee. Dù hắn ta không có gì ngoài sự khinh miệt dành cho tay Pháp sư người Anh này, nhưng không có lý do gì để hắn ta khiến mình trở thành kẻ thù của ông ta cả. Dee là tay chân của một người nhiều quyền chức hơn và chắc chắn là kẻ nguy hiểm nhất trong hết thảy các Elder Đen tối.

Kéo cái mũ parka lên đầu, tên thanh niên quay người đi khi bộ ba kia tiến sát đến gần bên hắn ta, đồng thời hắn ta bấm số gọi người chị đang chờ dưới cầu thang. “Dứt khoát là Flamel và cặp sinh đôi rồi,” hắn ta lầm bầm trong điện thoại, nói bằng một thứ tiếng cổ xưa mà sau này rốt cuộc đã trở thành ngôn ngữ Gael. “Bọn chúng đang hướng về phía chị đó. Chúng ta sẽ bắt trọn ổ khi bọn chúng lên đến đường Euston.”

Khảy tay đóng nắp điện thoại, tên thanh niên trong chiếc áo parka có mũ trùm bắt đầu cất bước theo sau Nhà Giả kim và cặp sinh đôi người Mỹ. Hắn ta di chuyển dễ dàng qua đám đông đầu giờ buổi chiều, trông giống hệt như những cậu thiếu niên khác, không tên tuổi và không gây sự chú ý nào trong chiếc quần jeans nhếch nhác, đôi giày mềm mòn vẹt và áo khoác rộng rinh, đầu và mặt hắn ta giấu trong cái mũ trùm, đôi mắt không sao thấy được nằm ẩn sau cặp kính râm tối thui.

Mặc dù hình dạng như vậy, nhưng tên thanh niên này không bao giờ có mảy may gì là con người. Hắn ta và những bà chị của mình đã đến vùng đất này lần đầu tiên từ khi vùng đất còn dính vào lục địa châu Âu, và trải qua nhiều thế hệ được tôn kính như những vị thần. Hắn ta vô cùng phẫn nộ trước việc phải chạy như cờ lông công dưới sự sai bảo của Dee – cái thứ mà rốt cuộc chẳng có gì hơn là một giống người. Nhưng tay Pháp sư người Anh đã hứa với tên con trai đội mũ trùm một chiến lợi phẩm khoái khẩu: Nicholas Flamel, Nhà Giả kim huyền thoại. Chỉ thị của Dee thật rõ ràng; hắn ta và mấy bà chị sẽ có Flamel, nhưng cặp song sinh thì không được đụng tới. Đôi môi mỏng của tên con trai vặn vẹo. Mấy bà chị hắn ta sẽ dễ dàng bắt lấy cặp song sinh, trong khi hắn ta có vinh dự ra tay giết chết Flamel. Cái lưỡi đen trũi như than chì của hắn ta phóng ra khỏi khóe miệng, liếm láp cặp môi ngay khi ý tưởng này vừa ập đến. Hắn ta và mấy bà chị sẽ đánh chén đến hết sạch Nhà Giả kim trong suốt cả mấy tuần liền. Và, tất nhiên, chúng phải để dành những miếng ngon nhất cho Mẹ.

Nicholas Flamel bước chậm lại để Sophie và Josh bắt kịp ông. Gượng cười, ông chỉ tay vào bức tượng bằng đồng cao đến hơn chín mét bên dưới chiếc đồng hồ, khắc họa một cặp nam nữ đang ôm nhau. “Nó được đặt tên là Nơi Gặp gỡ,” ông nói lớn, và rồi nói thêm bằng một giọng thầm thì, “chúng ta đang bị theo dõi.” Vẫn mỉm cười, ông nghiêng người vào Josh và lẩm bẩm, “không được quay nhìn chung quanh nghe chưa, chỉ nghĩ đến thôi cũng không được.”

“Ai?” Sophie hỏi.

“Cái gì?” Josh nói chắc nịch. Cậu đang cảm thấy buồn nôn và hoa mắt choáng váng; các giác quan vừa mới được Đánh thức của cậu bị các mùi hương và âm thanh của nhà ga áp đảo dữ dội. Một cơn nhức đầu nhoi nhói lên từng cơn bên dưới phần xương sọ cậu, còn ánh sáng lại quá gay gắt đến nỗi cậu ước gì mình có được một cặp kính râm.

“Ừ – ‘Cái gì?’ mới là câu hỏi đúng hơn,” Nicholas nói dứt khoát. Ông giơ một ngón tay chỉ lên chiếc đồng hồ, ra vẻ như đang nói về nó. “Chú không rõ thật sự có cái gì ở đây,” ông thú nhận. “Một cái gì đó cổ xưa lắm. Chú cảm thấy nó ngay khi vừa bước ra khỏi xe lửa.”

“Cảm thấy nó?” Josh hỏi, đầu óc quay cuồng, và càng lúc cậu lại càng thấy một sự lộn xộn khuấy đảo lung tung trong người. Lâu rồi cậu đã không bị cảm giác buồn nôn thế này kể từ lần say nắng ở Hoang mạc Mojave.

“Một cảm giác râm ran giống như bị ngứa. Luồng điện của chú phản ứng với luồng điện của ai đó – một cái gì đó – ở ngay đây. Khi tụi cháu kiểm soát được luồng điện của mình hơn chút nữa, tụi cháu cũng sẽ có thể cảm thấy như vậy.”

Ngửa đầu ra sau, vờ như thể chiêm ngưỡng công trình làm bằng những thanh sắt bắt chéo nhau trên khoảng trần kết hợp giữa kim loại và kính, Sophie quay người chầm chậm. Đám đông cuộn xoáy quanh bọn họ. Phần lớn có vẻ như người địa phương – những người sống ở ngoại ô vào làm việc trong thành phố – tuy vậy cũng có rất nhiều khách du lịch, nhiều người dừng lại để nhờ bạn bè chụp cho những tấm ảnh đứng trước bức tượng Nơi Gặp gỡ hoặc lấy chiếc đồng hồ khổng lồ làm ảnh nền. Dường như không ai có bất cứ sự chú ý đặc biệt nào đến cô bé và những người cùng đi với cô bé cả.

“Chúng ta sẽ làm gì?” Josh hỏi. Cậu chợt cảm thấy hoang mang sợ hãi. “Cháu có thể đẩy năng lượng của Sophie mạnh lên,” cậu nói lắp bắp, “giống y như cháu đã làm ở Paris ấy –”

“Không,” Flamel vừa gắt lên, vừa chộp lấy cánh tay Josh bằng những ngón tay cứng như sắt. “Từ nay trở đi, cháu chỉ có thể dùng năng lượng của mình thuần túy như một phương sách bắt buộc cuối cùng thôi. Ngay khi cháu kích hoạt năng lượng của mình, là cháu sẽ báo động cho từng Elder, Thế hệ Kế tiếp và người bất tử trong phạm vi bán kính mười sáu ki-lô-mét về sự hiện diện của cháu. Mà ở đây, tại nước Anh này, hầu như mọi người bất tử tụi cháu chạm trán đều là đồng minh của những Elder Đen tối. Cũng vậy, trong vùng đất này, năng lượng ấy còn có thể đánh thức những thứ khác nữa, những sinh vật mà tốt nhất là nên để cho chúng ngủ yên.”

“Nhưng chú nói chúng ta đang bị theo dõi mà,” Sophie cãi. “Điều đó có nghĩa là Dee đã biết chúng ta đang ở đây rồi còn gì.”

Flamel đẩy cặp song sinh qua bên trái, rời khỏi bức tượng, hối thúc chúng tiến về phía cửa ra. “Chú hình dung trong mỗi phi trường, cảng biển và ga xe lửa xuyên khắp châu Âu đều có những con mắt quan sát theo dõi. Mặc dù hẳn Dee đã nghi ngờ chúng ta đang hướng về London; nhưng ngay khi bất cứ đứa nào trong hai đứa tụi cháu kích hoạt luồng điện của mình, thì lúc đó hắn mới biết chắc chắn.”

“Rồi sau đó hắn sẽ làm gì ạ?” Josh vừa hỏi, vừa quay người nhìn Flamel. Trong ánh sáng gay gắt trên đầu, những đường hằn mới trên trán Nhà Giả kim và quanh mắt ông sắc nét hẳn.

Flamel nhún vai. “Ai biết được hắn có khả năng làm tới chuyện gì? Hắn rất liều lĩnh, và những con người liều lĩnh thường làm những chuyện kinh khủng. Nhớ lại đi, hắn đã ở tuốt trên nóc nhà thờ Notre Dame. Hắn sẵn sàng phá hủy tòa công trình cổ xưa này chỉ để chặn tụi cháu lại... sẵn sàng giết chết tụi cháu để ngăn không cho tụi cháu rời Paris.”

Josh lắc đầu, bối rối. “Nhưng đó mới chính là những gì cháu không hiểu nổi – cháu cứ tưởng hắn muốn tụi cháu sống chứ.”

Flamel thở dài. “ Dee là một thầy đồng gọi hồn. Đó là một thuật rất tởm lợm và kinh khiếp liên quan đến việc khiến cho luồng điện của một xác chết hoạt động và làm cho thân xác đó sống trở lại.”

Một cơn buốt lạnh lan khắp người Josh khi cậu nghĩ đến điều đó. “Chú bảo hắn sẽ giết tụi cháu rồi làm cho tụi cháu sống trở lại sao?”

“Đúng. Như một hành động bắt buộc cuối cùng.” Flamel với tay nhè nhẹ siết vai cậu con trai. “Tin chú đi, đó là một sự tồn tại kinh khủng, là cái bóng mờ nhạt nhất của cuộc sống. Và hãy nhớ, Dee đã trông thấy những gì tụi cháu làm, vì thế bây giờ hắn đã có một ý niệm mơ hồ nào đó về năng lượng của hai đứa. Nếu có bất cứ nghi ngờ nào trong đầu hắn vì không rõ tụi cháu có phải là cặp song sinh được nhắc đến trong huyền thoại không, thì những nghi ngờ ấy ắt đã tan biến hết rồi. Hắn phải có được hai đứa tụi cháu. Hắn cần tụi cháu.” Nhà Giả kim huých vào ngực Josh. Tiếng giấy kêu sột soạt. Bên dưới lớp áo thun của cậu, trong cái túi vải đeo quanh cổ, Josh đang mang hai trang sách cậu đã kịp xé ra khỏi cuốn Codex. “Và, trên hết thảy mọi thứ khác, hắn phải có được những trang sách đó.”

Cả nhóm đi theo mấy tấm bảng chỉ dẫn để đến lối ra bên phía đường Euston và cuốn theo dòng người ở ngoại ô vào thành phố làm việc cũng đang xuôi về cùng một chiều. “Cháu tưởng chú nói sẽ có người nào đó đến gặp chúng ta chứ ạ,” Sophie vừa nói, vừa nhìn quanh.

“Saint-Germain nói cậu ấy sẽ cố bắt liên lạc với một người bạn cũ,” Flamel lầm bầm. “Có thể là cậu ấy không liên lạc được.”

Họ bước ra khỏi nhà ga lát gạch đỏ được trang trí công phu để đi lên đường Euston và chợt đứng sựng lại vì ngạc nhiên. Khi họ rời Paris chỉ mới cách đây hai tiếng rưỡi, khắp bầu trời không gợn chút mây, nhiệt độ lên đến khoảng hai mươi mốt độ Celcius; nhưng ở London cảm giác như ít nhất phải lạnh hơn như thế đến trên mười độ, mà trời lại đang mưa dữ dội. Gió quật xuống đường từng cơn như những ngọn roi vun vút đủ lạnh để làm cặp sinh đôi run lập cập. Chúng quay người chúi đầu trở lại vào mái che của nhà ga.

Và đó chính là lúc Sophie nhìn thấy hắn ta.

“Một tên con trai mặc parka màu xanh lục, mũ kéo trùm đầu,” cô bé chợt nói, quay người sang Nicholas và tập trung hết sức vào đôi mắt nhàn nhạt của ông. Cô bé biết rằng nếu nhìn đi chỗ khác, mình sẽ vô tình liếc phải người thanh niên đang vội vã theo sau. Cô bé vẫn có thể nhìn thấy hắn ta nơi khóe mắt. Hắn ta đang đi loanh quanh gần một thân cột, nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại di động trong tay, nghịch vớ vẩn gì đó. Có cái gì không ổn trong cách hắn ta đứng. Một cái gì không tự nhiên. Và cô bé nghĩ mình bắt được thoáng trong không khí một thứ mùi hôi thối của thịt ươn. Cô bé nhăn mũi. Nhắm mắt lại, cô bé tập trung vào mùi ấy. “Nghe như thứ gì thối rữa, giống như xác thú bị cán chết trên đường ấy.”

Nụ cười trên gương mặt Nhà Giả kim căng ra. “Trùm cái mũ hả? Đúng rồi, đó là người đang theo dõi chúng ta.” Cặp sinh đôi bắt gặp một chút run run rất nhẹ trong tiếng nói của ông.

“Chỉ có điều hắn không phải con trai, phải vậy không chú?” Sophie hỏi.

Nicholas lắc đầu. “Gần giống thôi cũng không.”

Josh hít một hơi thật sâu. “Vậy thì, chú có muốn cháu nói với chú là bây giờ đang có hai người nữa cũng mặc parka màu xanh lục có mũ trùm đầu, và cả hai đều đang hướng cùng chiều với chúng ta không?”

“Ba tên lận hả?” Flamel thì thào với vẻ đầy khiếp sợ. “Mình phải đi thôi.” Túm lấy cánh tay cặp sinh đôi, ông kéo chúng dấn vào cơn mưa tuyết, rẽ sang phải và lôi chúng xuống phố.

Cơn mưa quá lạnh đến nỗi làm Josh không thở được. Nước như những viên đạn nhỏ cứng ngắc châm chích vào mặt cậu. Cuối cùng, Flamel kéo cả hai đứa vào một con hẻm, thoát khỏi cơn mưa đang dội xuống như trút. Josh đứng lấy lại hơi thở. Cậu vuốt ngược tóc ra khỏi mắt và nhìn Nhà Giả kim. “Bọn chúng là ai vậy chú?” cậu gặng hỏi.

“Bọn Trùm Đầu,” Nhà Giả kim nói với vẻ bực bội. “ Dee thật liều lĩnh hết sức, và nếu hắn có thể ra lệnh được cho chúng thì quả là hắn quyền lực hơn chú nghĩ. Chúng là Genii Cucullati.”

“Tuyệt,” Josh nói. “Bây nhiêu đó đủ nói cho cháu mọi chuyện cháu cần biết.” Cậu nhìn cô chị gái. “Chị có từng nghe nói...,” vừa mới mở lời, cậu đã nín bặt ngay khi trông thấy vẻ mặt cô bé. “Chị biết rồi sao!”

Sophie run bắn người khi ký ức của Bà Phù thủy Endor chợt lung linh nơi bờ rìa tâm thức mình. Cô bé cảm thấy có cái gì chua lét đằng sau cổ họng, và dạ dày cô xoắn vặn đầy kinh tởm. Bà Phù thủy Endor đã biết Genii Cucullati – và bà ấy ghét chúng ghê gớm. Sophie quay người sang cậu em trai và giải thích. “Bọn ăn thịt người.”
 
CHƯƠNG 2
Đường phố trống trơn, cơn gió giật đi kèm với mưa tuyết đã lùa mọi người vào nhà ga hay các
 cửa hiệu chung quanh. Lưu thông trên đường Euston dừng lại hết, chỉ còn mấy cái cần gạt nước ở kính chắn gió xe hơi là đập vỗ điên cuồng. Những tiếng còi hụ inh ỏi, và thiết bị báo động trong một chiếc xe hơi gần đó chợt gào rú lên.

“Bám sát chú,” Nicholas ra lệnh, rồi quay người lao thẳng qua bên kia đường, len lỏi xuyên qua hàng xe cộ đang đứng cứng ngắc. Sophie theo sát đàng sau ông. Josh ngừng lại một chút trước khi bước khỏi lề đường, nhìn ngược lại phía nhà ga. Ba hình dáng kia đã tụ lại với nhau nơi lối vào, đầu và mặt chúng giấu trong mũ trùm của mấy chiếc áo khoác. Khi làn nước mưa nhuộm những chiếc parka của chúng thành màu xanh lá tối sẫm, Josh ắt hẳn đã có thể khẳng định rằng bọn chúng vừa khoác lên người những chiếc áo choàng không tay. Cậu run lẩy bẩy, và lần này cơn lạnh cóng không chỉ đến từ cơn mưa tê buốt đang xối xả ầm ào tuôn xuống như trút. Cậu quay người lao vọt sang bên kia đường.

Chúi đầu xuống tránh nước mưa tạt, Nicholas dẫn hai đứa trẻ song sinh đi giữa làn xe cộ. “Nhanh lên. Nếu tạo được một khoảng cách vừa đủ giữa ta với chúng thì mùi của xe cộ và nước mưa có thể sẽ gột sạch được mùi hương của chúng ta đó.”

Sophie liếc nhìn ra đằng sau. Ba tên trùm mũ đã rời khỏi chỗ trú mưa nơi nhà ga và đang tiến đến gần khá nhanh. “Bọn chúng đang ở sau mình kìa,” cô bé nói hổn hển, giọng hốt hoảng.

“Mình làm cái gì bây giờ chú?” Josh hỏi.

“Không biết nữa,” Flamel nói gọn ơ. Ông nhìn chăm chăm xuống con đường dài thẳng tắp. “Nhưng nếu ở lại đây, chúng ta sẽ chết mất. Hoặc ít nhất thì cũng là chú.” Hàm răng ông lóe sáng khi ông nhoẻn cười không chút đùa cợt. “ Dee sẽ vẫn để cả hai đứa tụi cháu sống, chú bảo đảm.” Flamel liếc nhìn quanh, rồi chợt thấy một con hẻm phía bên trái và ra hiệu cho hai đứa sinh đôi đi theo ông. “Đường này. Chúng ta sẽ cố cắt đuôi chúng.”

“Cháu ước gì có Scatty ở đây,” Josh lầm bầm, thật sự nhận ra tầm quan trọng trong nỗi mất mát của họ. “Thế nào chị ấy cũng trị được bọn chúng.”

Trời tạnh ráo trong con hẻm hẹp có tường cao ngút hai bên. Những thùng rác nhựa màu xanh lơ, xanh lá, và nâu xếp thành hàng sát vào một bên tường, còn những mảnh gỗ thừa thẹo còn lại của mấy tấm nâng hàng và những túi nhựa đen thui nhét rác căng cứng chất thành đống dựa vào bên bờ tường còn lại. Mùi hôi thối xông lên, và một con mèo lông bù xù đang ngồi trên miệng một túi rác cẩn thận lấy móng vuốt xé nhỏ túi rác ra. Thậm chí con mèo còn không thèm ngẩng lên nhìn khi Flamel và cặp song sinh chạy ngang qua. Tuy vậy, chỉ một tích tắc sau, khi cả ba dáng người đội mũ trùm đầu bước vào con hẻm, con mèo ấy liền gò cái lưng cong vòng, lông dựng đứng, và biến mất dạng vào vùng tối.

 “Chú có biết con hẻm này dẫn đi đâu không ạ?” Josh hỏi khi họ phóng vụt qua một dãy cửa ra vào bên tay trái, rõ ràng đó là lối sau dẫn vào những cửa hiệu buôn bán trên con đường chính.

“Không biết gì hết trơn,” Flamel thú nhận. “Nhưng miễn là nó mang chúng ta xa khỏi Bọn Trùm Đầu, còn thì mọi chuyện đều không quan trọng.”

Sophie nhìn lui. “Cháu không thấy chúng nữa,” cô bé loan báo. “Có lẽ chúng ta cắt đuôi được chúng rồi.” Cô bé bám theo Nicholas vòng quanh một góc phố sát đến nỗi chỉ chực đâm thẳng vào ông khi ông đột ngột dừng lại.

Rồi đến lượt Josh vòng quanh góc phố ấy, suýt chút nữa mất dấu hai người kia. “Cứ đi thôi,” cậu vừa thở hổn hển, vừa chạy lắt léo vượt qua hai người và dẫn đầu. Nhưng rồi cậu chợt hiểu ra tại sao hai người kia dừng lại: con hẻm tận cùng bằng một bức tường gạch đỏ quạch sừng sững, mút trên đầu bờ tường là mớ dây kẽm gai quấn lòng vòng.

Nhà Giả kim xoay người lại và đặt ngón tay lên môi. “Đừng nói gì cả. Biết đâu có thể là bọn chúng đã xúm nhau băng qua con hẻm này mất rồi...” Một cơn gió mạnh cuốn những giọt mưa lạnh lẽo rơi lộp độp xuống đất mang theo một thứ mùi ôi thiu thum thủm khác thường: mùi hôi thối của thịt ươn. “Mà cũng có thể là không,” ông nói thêm khi cả ba tên Genii Cucullati nhún nhảy nhè nhẹ vòng quanh góc phố ấy. Nicholas kéo hai đứa sinh đôi ra phía sau ông, nhưng ngay lập tức hai đứa bung ra chọn lấy hai vị trí bên cạnh ông. Theo bản năng, Sophie di chuyển sang bên phải và Josh bên trái. “Đứng vào sau lưng ấy chứ,” Flamel nói.

“Không,” Josh nói.

“Tụi cháu sẽ không để chú một mình đương đầu với ba tên này đâu,” Sophie nói thêm.

Bọn Trùm Đầu đi chậm lại, rồi dàn ra chốt lấy con hẻm và dừng hẳn lại. Chúng đứng yên một cách khác thường, mặt giấu trong mấy cái mũ trùm rộng rinh.

“Chúng chờ đợi cái gì vậy cà?” Josh lẩm bẩm, giọng cậu chỉ vừa vặn lớn hơn tiếng thì thầm một chút. Có cái gì đó trong cách chúng đứng, cách chúng giữ thẳng người: cái gì đó gợi cho người ta nghĩ đến một loài thú. Cậu đã từng xem một bộ phim tài liệu trong chương trình truyền hình National Geographic, trong đó, một chú cá sấu châu Mỹ đang nằm trên một con sông chờ hươu nai băng qua. Hoàn toàn trong trạng thái lặng im phăng phắc – mãi cho đến khi có cơ hội nổ bùng ra thành hành động chớp nhoáng.

Đột nhiên, một âm thanh nghe như tiếng gỗ lách tách bật tiếng kêu răng rắc cực kỳ lớn vang khắp con hẻm yên ắng, theo sau là những âm thanh như thể tiếng quần áo bị xé toạc ra.

“Chúng đang biến hình,” Sophie thở dồn dập.

Bên dưới lớp áo khoác màu xanh lục, cơ bắp của chúng dợn sóng cuồn cuộn và co thắt từng cơn, uốn cong cột xương sống của những sinh vật ấy thành hình vòng cung, đẩy đầu chúng nhô hẳn tới phía trước. Những cánh tay vụt dài ra thấy rõ, đẩy bàn tay thò khỏi ống tay áo vốn đã dài quá khổ, những bàn tay bây giờ mọc đầy lông lá và mút cuối là những móng vuốt đen đủi quăn chĩa lung tung.

“Sói à?” Josh hỏi giọng run run.

“Giống gấu hơn là sói,” Nicholas vừa trả lời nhè nhẹ, vừa nhìn quanh con hẻm khắp lượt, đôi mắt ông nheo lại. “Và nhiều chất sói hơn gấu,” ông nói thêm khi nghe thoảng trong không khí mùi hương vanilla.

“Và không gì đe đọa được chúng ta,” Sophie tuyên bố, đồng thời vụt đứng thẳng người hơn. Giơ bàn tay phải lên cao, cô bé ấn ngón cái tay trái vào vòng tròn màu vàng ánh kim ăn sâu vào da thịt nơi cổ tay mình.

“Không,” Nicholas vừa gắt lên, vừa đưa tay đẩy bàn tay cô gái nhỏ xuống. “Chú đã nói với cháu rồi; cháu không thể dùng năng lượng của mình trong thành phố này kia mà. Luồng điện của cháu quá đặc biệt đi.”

Sophie lắc đầu phẫn nộ. “Cháu biết mấy thứ này là gì mà,” cô bé nói chắc nịch. Rồi một cơn rùng mình len vào giọng nói cô bé. “Cháu biết chúng làm gì nữa kìa. Chú không thể mong đợi tụi cháu chỉ đứng yên đây trong khi mấy thứ đó ăn thịt chú được. Hãy để cháu xử lý bọn chúng – cháu có thể nướng bọn chúng thành lát khoai tây giòn rụm cho xem.” Cơn giận dữ của cô bé nhanh chóng biến thành nỗi phấn khích trước viễn cảnh đó, và cô mím môi cười. Trong thoáng chốc đôi mắt sáng màu xanh lơ của cô bé lấp lánh bạc còn khuôn mặt lại hóa nên cứng cỏi và góc cạnh, khiến cô bé trông già hơn rất nhiều so với tuổi mười lăm của mình.

Nụ cười của Nhà Giả kim thật tàn nhẫn. “Cháu có thể làm điều đó. Và đến lúc ấy, chú ngờ rằng chúng ta chỉ kịp chạy xuống đường chừng hơn một cây số rưỡi thì đã có thứ gì đó còn chết người hơn những sinh vật này bắt được chúng ta. Cháu không ý thức nổi những gì đang dạo qua dạo lại trên những đường phố này đâu, Sophie. Chú xử lý chuyện này được mà,” ông cứ nằng nặc. “Chú không đến nỗi hoàn toàn không có khả năng tự vệ đâu.”

“Bọn chúng sắp tấn công kìa,” Josh nói gấp gáp, diễn dịch lại ngôn ngữ thân thể của đám sinh vật, quan sát xem chúng di chuyển thành một kiểu mẫu đột kích như thế nào. Đâu đó sâu tận trong tâm thức, cậu bắt gặp mình đang băn khoăn tự hỏi không biết làm thế nào mà cậu lại biết được điều này. “Nếu bạn sắp sửa làm một việc, bạn cần phải làm việc đó ngay bây giờ.”

Bọn Genii Cucullati đã dàn quân ra, mỗi con đóng giữ một vị trí trước Flamel và cặp song sinh. Các sinh vật này gập người tới trước, lưng chúng uốn cong vòng, mấy chiếc áo parka căng cứng bó qua những bộ ngực rộng, vai u phồng và những cánh tay đầy cơ bắp. Trong vùng tối của mấy cái mũ trùm, những cặp mắt đen ngả xanh lơ chiếu sáng rực phía trên hàm răng lởm chởm. Chúng nói chuyện với nhau bằng một thứ âm thanh hệt như những tiếng ăng ẳng the thé và gầm gừ cẳn nhẳn.

Nicholas vén ống tay áo khoác da lên, để lộ ra quanh cổ tay phải của ông chiếc vòng mắt xích bằng bạc và hai chiếc vòng tay tình bạn đơn giản làm bằng chỉ sợi nhiều màu đã cũ sờn. Vặn tháo một trong hai chiếc vòng kết bằng sợi đơn giản ấy, ông lăn tròn nó giữa lòng bàn tay mình, đưa lên môi và thổi phù vào đó.

Sophie và Josh chăm chú nhìn ông quăng chiếc vòng bằng chỉ cuộn lại như trái banh nhỏ xuống đất ngay trước mặt Bọn Trùm Đầu. Hai đứa trông thấy những sợi dây đủ màu sắc ấy rơi vào vũng bùn ngay trước mặt sinh vật lớn nhất trong đám và dốc hết tâm trí đón chờ một cú nổ. Thậm chí cả những sinh vật kinh khiếp kia cũng bò lùi khỏi vũng nước nhỏ ấy, móng vuốt trượt trên vỉa hè.

Ấy vậy mà chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

Con vật to lớn nhất kia phát ra một thứ âm thanh có lẽ là tiếng cười.

“Cháu đã nói tụi cháu phải ra tay kia mà,” Josh nói đầy thách thức, dù trước thất bại của Nhà Giả kim, cậu thấy mình cũng hơi bị run. Cậu đã từng trông thấy Flamel ném ra những ngọn giáo năng lượng thuần khiết, đã từng chăm chú nhìn ông tạo ra một khu rừng từ một lớp gỗ lót sàn – bây giờ cậu đang kỳ vọng được chiêm ngưỡng một pha ngoạn mục. Josh liếc nhìn cô chị gái và biết rằng cô bé cũng nghĩ đúng như cậu. Cùng với thể trạng ngày càng già yếu của Flamel, năng lượng ông cũng đang mất dần. Josh gật đầu rất nhẹ và thấy đầu Sophie cũng nghiêng nghiêng đáp trả, rồi cô bé cong gập mấy ngón tay mình lại. “Chú Nicholas, chú đã trông thấy tụi cháu làm gì với bọn đầu máng xối gargoyle rồi đó,” Josh nói tiếp, tin chắc về năng lượng của cô chị gái và của chính mình. “Cùng nhau, cháu và Sophie có thể chống cự bất kỳ ai... và bất kỳ thứ gì.”

“Ranh giới giữa lòng tự tin và tính kiêu căng ngạo mạn rất mỏng manh, Josh,” Flamel nói khẽ. “Và ranh giới giữa tính cao ngạo với sự ngu dại ngớ ngẩn thậm chí còn tinh vi hơn. Sophie ạ,” ông nói thêm mà không hề nhìn vào cô bé, “nếu tụi cháu sử dụng năng lượng của mình, tức là tụi cháu đã buộc tất cả chúng ta vào bản án tử hình.”

Josh lắc đầu. Cậu rất phẫn nộ trước sự yếu đuối quá lộ liễu của Flamel. Bước tách khỏi người đàn ông luống tuổi, cậu gỡ ba-lô của mình xuống và giật mạnh cho nó mở bung ra. Ló lên khỏi một bên ba-lô là cái ống làm bằng giấy bồi, thường dùng để đựng tranh poster và bản đồ cuộn lại. Bóc toạc cái nắp nhựa màu trắng ra, cậu thò tay vào, túm lấy một vật ở bên trong được gói bằng giấy bao ép bong bóng và kéo nó ra.

“Chú Nicholas...?” Sophie cất tiếng.

“Kiên nhẫn,” Flamel thì thầm, “kiên nhẫn nào...”

Con vật to lớn nhất trong Bọn Trùm Đầu thả xuống cả bốn chân và bước tới, những cái vuốt có móng dài bẩn thỉu gõ lách cách trên vỉa hè. “Ông đã được tặng cho tôi,” con thú dữ nói bằng một giọng cao éo the thé đến mức đáng kinh ngạc – gần như giọng trẻ con.

Dee thật là hào phóng,” Flamel điềm tĩnh nói. “Tuy tôi có hơi ngạc nhiên không hiểu sao giống loài Genii Cucullati lại đi hạ cố làm tay sai cho một nòi giống người vậy nhỉ.”

Sinh vật ấy dấn thêm một bước lách cách tiến đến gần hơn. “ Dee đâu phải là con người thường tình. Tay Pháp sư bất tử này rất nguy hiểm, mà ông ta lại được bao che bảo vệ bởi một chủ nhân có rất nhiều quyền sinh sát trong tay hay còn hơn thế nữa.”

“Có lẽ anh nên sợ tôi mới phải,” Flamel gợi ý cùng với một nụ cười rất nhẹ. “Tôi còn già hơn cả Dee, và tôi không hề có chủ nhân nào bảo vệ – mà tôi cũng chưa từng cần đến một người nào bảo vệ cả!”

Sinh vật phá ra cười và rồi, không hề có một động tác báo trước, nhảy xổ thẳng vào cổ họng Flamel.

Một thanh kiếm đá rít lên xuyên màn không khí, lạng cái mũ trùm của chiếc áo parka một nhát gọn lỏn, ngọt xớt cắt đứt lìa một miếng vải màu xanh lá. Sinh vật ấy hét lên thất thanh và uốn éo toàn thân giữa không trung, cuộn người tránh khỏi lưỡi kiếm đang vung trở lại, lưỡi kiếm chém thẳng ra đằng trước chiếc áo khoác, phạt ngang mấy hột nút và bứt banh luôn dây khóa kéo.

Josh Newman bước thẳng tới phía trước Nicholas. Bằng cả hai tay, cậu đang cầm thanh kiếm đá vừa rút ra khỏi cái ống làm từ giấy bồi. “Tôi không biết mấy người là ai, hoặc là cái gì,” cậu nói qua hàm răng khít rịt, tiếng nói rung rung do hoóc-môn adrenaline tiết ra cùng với nỗ lực giữ chắc món vũ khí. “Nhưng tôi cho rằng chắc mấy người đều biết đây là gì rồi chứ?”

Con thú dữ quay người trở lại, đôi mắt màu đen ngả xanh lơ dán chặt vào lưỡi kiếm xám xịt như đất sét. Cái mũ trùm thường dùng để giấu mặt biến đâu mất, do đã bị cắt ra thành từng mảng rách tả tơi, những mảnh còn lại treo lủng lẳng quanh vai nó, để lộ nguyên phần đầu. Không có gì là của con người nơi những chỗ bằng phẳng và góc cạnh của bộ mặt ấy, thậm chí một chút cũng không. Josh lưu ý thấy vậy, nhưng khuôn mặt lại xinh đẹp một cách lạ lùng. Cậu tưởng mình sẽ phải nhìn thấy một con quỷ, nhưng cái đầu này nhỏ đến ngạc nhiên, với cặp mắt thật lớn màu tối sẫm chìm sâu trong một gợn chân mày hẹp, xương gò má nhô cao và nhọn. Chiếc mũi thẳng, cánh mũi loe ra. Phần miệng là một đường xẻ nằm ngang bây giờ hơi mở hé để lộ hàm răng vàng vàng đen đen méo mó chẳng ra hình thù gì.

Ánh mắt Josh đảo sang trái rồi sang phải nhìn vào hai sinh vật kia. Bọn chúng cũng tập trung hết sức vào thanh kiếm đá. “Đây là thanh Clarent,” cậu nói nhỏ. “Tôi đã chiến đấu với Nidhogg ở Paris bằng chính vũ khí này đây,” cậu nói tiếp. “Và tôi từng trông thấy những gì nó đã làm cho giống loài của các người.” Cậu di chuyển thanh kiếm nhè nhẹ và có cảm giác như nó kêu ù ù, chuôi kiếm bỗng nghe thật ấm trong đôi tay cậu.

Dee chưa hề nói với chúng tôi chuyện này,” sinh vật kia nói bằng một giọng hệt như tiếng trẻ con. Qua vai Josh, nó nhìn đến Nhà Giả kim. “Thật vậy chứ?”

“Thật,” Flamel nói.

“Nidhogg.” Sinh vật này hầu như lập bập ra từng lời. “Và chuyện gì đã xảy ra cho Kẻ Nuốt chửng Tử thi huyền thoại ấy?”

“Nidhogg chết rồi,” Flamel nói ngắn gọn. “Bị thanh Clarent tiêu diệt.” Ông bước ra phía trước và đặt bàn tay trái lên vai Josh. “Josh đã giết chết thứ đó.”

“Bị giết chết dưới tay một giống người ư?” nó nói đầy vẻ ngờ vực.

Dee đã lợi dụng anh, lừa dối phản bội anh. Hắn không nói với các anh rằng chúng tôi có thanh kiếm này. Hắn còn chưa nói với các anh những điều gì khác nữa chứ: hắn có nhắc đến số phận của bọn Disir ở Paris không? Hắn có kể qua cho các anh nghe về vị Thần Ngủ chưa nào?”

Cả ba sinh vật trượt lùi trở lại cùng với thứ ngôn ngữ riêng của chúng, kêu ăng ẳng the thé và gầm gừ càu nhàu gì đó giữa chúng với nhau; rồi con to lớn nhất quay ra chăm chú nhìn Josh một lần nữa. Cái lưỡi đen thui nhảy múa trong không khí. “Những thứ này chỉ mang lại chút kết quả chẳng đáng là bao. Ta thấy đứng trước ta là một đứa con trai thuộc giống người đang rất sợ hãi. Ta có thể nghe được những cơ bắp của cậu bé con căng ra khi cố gắng hết sức mình giữ cho thanh kiếm được vững chắc. Ta có thể cảm nếm nỗi sợ hãi lan tỏa trong không khí.”

“Vậy đó, nhưng dù anh có thể ngửi thấy được nỗi sợ hãi đó, thì cậu ấy vẫn tấn công anh kìa,” Flamel nói nhỏ nhẹ. “Điều đó có gợi ra được chút gì không?”

Đôi vai của sinh vật đó chuyển động theo một kiểu rùng mình rất kỳ quặc. “Gợi cho người ta thấy rằng cậu bé ấy hoặc là một tên ngu ngốc dại dột hoặc là một anh hùng.”

“Và anh cùng với giống loài của anh luôn luôn bị tổn thương bởi cả hai loại người đó,” Flamel nói.

“Đúng, nhưng thế giới này không còn anh hùng nữa rồi. Không còn ai để tấn công chúng tôi. Loài người không còn lòng tin dành cho giống loài của chúng tôi. Điều đó khiến chúng tôi trở thành vô hình và không thể bị tổn thương được.”

Josh vừa làu bàu vừa dựng mũi kiếm lên trời. “Đối với Clarent thì không.”

Sinh vật đó nghiêng nghiêng đầu rồi gật gù. “Đối với Lưỡi kiếm Hèn nhát thì không, đúng vậy. Nhưng chúng ta có ba người và chúng ta nhanh nhẹn, rất nhanh nhẹn,” nó nói thêm cùng với một nụ cười rộng đến mang tai phơi bày ra hàm răng nhọn hoắt lởm chởm. “Ta nghĩ chúng ta có thể bắt được cậu, cậu bé trai ạ; tước lấy thanh kiếm khỏi tay cậu thậm chí còn trước cả khi cậu biết là –”

Bản năng Josh đang sở hữu mà cậu không hề biết đã mách bảo với cậu rằng sinh vật đó sắp sửa tấn công đúng ngay vào lúc nó vừa nói xong. Rồi tất cả sẽ chấm dứt. Không suy nghĩ gì cả, cậu thọc mạnh thanh kiếm ra theo cú đâm Joan Arc đã dạy cậu. Lưỡi kiếm kêu o o khi đầu mũi đâm thẳng vào cổ họng đang giương ra của con quái thú. Josh biết rằng tất cả những gì cậu cần phải làm là xóa tan nỗi sợ hãi bằng chính thanh kiếm này: chỉ một cú duy nhất đã hầu như tiêu diệt được Nidhogg.

Cười phá lên, sinh vật ấy nhảy lùi xa khỏi tầm kiếm đâm chĩa tới. “Quá chậm mất rồi, giống người ơi, chậm quá đi thôi. Mắt ta đã bắt chộp được mấy khớp đốt ngón tay của cậu căng ra và trắng bệch ngay trước khi cậu đâm đấy.”

Và đúng giây phút đó Josh biết phe của cậu sẽ thua. Bọn Genii Cucullati quả thật là cực kỳ nhanh nhẹn.

Nhưng ở phía trên vai trái mình, cậu nghe rõ tiếng Flamel khúc khích cười.

Josh trừng trừng nhìn thẳng vào sinh vật ấy. Cậu biết rằng điều cuối cùng cậu có thể làm là xoay người, nhưng cậu băn khoăn tự hỏi không biết chuyện gì lại làm cho Nhà Giả kim vui vẻ như vậy chứ. Cậu nhìn sát vào Kẻ Trùm Đầu kia. Nhưng đâu có gì thay đổi... ngoại trừ một việc là khi con quái vật ấy khi nhảy lùi khỏi tầm kiếm, đã dẵm chân vào vũng nước bẩn khi nãy.

“Nỗi sợ hãi làm ông phát điên rồi hả, Nhà Giả kim?” sinh vật ấy hỏi gằn.

“Hẳn nhiên là anh biết Elder Iris chứ, con gái của Electra ấy?” Flamel vừa hỏi như thể đang chuyện trò, vừa bước quành qua người Josh. Khuôn mặt hẹp của Nhà Giả kim bỗng đanh lại, không hề biểu cảm, môi ông mỏng dính như một đường kẻ, đôi mắt nhàn nhạt khép ti hí chỉ nhỉnh hơn hai đường rãnh một chút.

Đôi mắt màu đen ngả sang xanh lơ của sinh vật kia trợn trừng đầy vẻ khiếp đảm. Nó cúi nhìn xuống.

Nước bẩn đang cuộn xoáy quanh bàn chân nó thình lình nở bung ra như một khoảnh cầu vồng đầy màu sắc tràn cả ra ngoài những tao dây tả tơi của chiếc vòng tay đan kết bằng chỉ của Flamel. Tên Genii Cucullati cố nhảy lùi lại, nhưng hai chân trước của nó đã nhanh chóng dính chặt vào vũng nước. “Thả tôi ra, giống người kia,” nó thét lên thất thanh, cung giọng cao ré như trẻ con của nó chứa đầy nỗi khiếp đảm. Sinh vật ấy điên cuồng cố giật người thoát khỏi đó. Ấn sâu những móng vuốt xuống, nó cố vận dụng lực kéo, nhưng mút đầu một cái cẳng chân sau của nó chạm phải rìa vũng nước và một lần nữa nó lại gào rú tru tréo lên. Nó giật mạnh cái chân trở lại và một cái móng quăn tớn bị bóc toạc ra, dính cứng vào rìa vũng nước kia. Con vật sủa ran và hai tên đồng hành cùng lao mình tới trước túm đỡ giữ nó lại, cố sức kéo nó ra khỏi thứ chất lỏng đầy màu sắc đang uốn éo xoáy vặn.

“Nhiều thập kỷ trước đây,” Flamel nói tiếp, “tôi và Perenelle đã giải cứu Iris khỏi mấy người chị của bà ấy và để đáp lại, bà ấy đã tặng tôi những chiếc vòng này. Tôi chăm chú quan sát trong lúc bà ấy đan kết chúng từ luồng điện có màu sắc cầu vồng của bà. Bà bảo tôi rằng một ngày nào đó chúng sẽ mang lại một chút sắc màu cho cuộc sống của tôi.”

Những luồng nước xoáy đủ màu đang xoắn vặn bắt đầu bò trườn lên cẳng chân tên Genii Cucullati. Những móng chân màu đen bỗng hóa thành màu xanh lá, rồi đỏ, rồi lớp lông màu tím rịm bẩn thỉu biến đổi thành màu tim tím phớt xanh mờ mờ lung linh.

“Ông sẽ chết vì chuyện này,” sinh vật ấy gầm gừ cẳn nhẳn, thậm chí còn cất giọng eo éo với cung giọng cao hơn trước nữa, đôi mắt xanh lơ sáng quắc mở lớn vì khiếp sợ.

“Một ngày nào đó tôi sẽ chết,” Flamel đồng ý, “nhưng không phải hôm nay, và càng không phải chết bởi tay anh.”

“Ông cứ chờ đó đi cho tới khi tôi méc với Mẹ!”

“Anh cứ việc.”

Một tiếng nổ bốp vang lên, nghe như tiếng bong bóng vỡ, và đột nhiên những dải màu sắc cầu vồng vọt thẳng lên thân hình con quái thú, đẫm mình nó trong ánh sáng. Ngay chỗ hai tên kia nắm giữ nó, màu sắc loang ra đến tận mấy cái móng vuốt và thấm lên khắp lớp da chúng, biến những chiếc áo parka màu xanh lá thành những chiếc áo khoác đầy màu sắc thật đẹp mắt. Như thể vết dầu loang trên mặt nước, màu sắc kia biến chuyển thành nhiều kiểu mẫu hoa văn đầy mê hoặc, hình thành nên những sắc thái mới và những nền màu sáng rực trông thật kỳ quái. Cả ba sinh vật kia chỉ thốt lên được duy nhất một tiếng hú kinh hãi, nhưng tiếng kêu của chúng cũng bị tắt lịm và chúng ngã nhào một đống bên vệ đường. Khi chúng nắm bất động trên mặt đất, mớ màu sắc lộn xộn nhanh chóng tan chảy trên da thịt chúng, trả những chiếc áo khoác của chúng về với màu xanh lá buồn tẻ trước đây, và sau đó thân mình chúng bắt đầu biến đổi, xương nứt gãy, cơ bắp và gân cốt định hình trở lại. Lúc này màu sắc đã thấm ngược vào vũng nước, các sinh vật hồi phục lại vẻ bề ngoài của hình người.

Mưa tạt xuống dọc theo chiều dài con hẻm, bề mặt vũng nước nhiều màu sắc ấy nhảy múa và vỡ tan theo những giọt nước mưa. Trong chỉ duy một giây ấy, chiếc cầu vồng thu nhỏ hoàn hảo xuất hiện bên trên rồi thoắt nhạt nhòa tan biến mất, để lại trong vũng nước một màu nâu như bùn giống hệt lúc ban đầu.

 Flamel cúi người giật phắt phần còn lại của chiếc vòng tay tình bạn đang nằm trên mặt đường. Những sợi chỉ được bện tết vào nhau giờ biến thành màu trắng nhạt, đã bị lọc hết mọi màu sắc. Ông kéo thẳng sợi dây ra và nhìn ngoái lại hai đứa nhỏ sinh đôi. Flamel mỉm cười. “Chú không đến nỗi bất lực như vẻ ngoài của chú nhỉ. Tụi cháu không bao giờ được phép đánh giá thấp đối thủ của mình nhé,” ông dặn dò. “Nhưng chiến thắng này là của cháu, Josh ạ. Cháu đã cứu chúng ta. Một lần nữa. Thật đã trở thành một thói quen ra trò: Ojai, Paris, và giờ thì ở đây nữa.”

“Cháu không nghĩ –” Josh cất tiếng.

“Em chẳng bao giờ nghĩ,” Sophie vừa chen ngang, vừa siết chặt cánh tay cậu.

“Cháu đã hành động,” Flamel nói. “Vậy là đủ rồi. Đi thôi; hãy ra khỏi đây trước khi người ta phát hiện ra chúng.”

“Bọn chúng không chết chứ ạ?” Sophie vừa hỏi, vừa rảo quanh đám sinh vật kia.

Josh nhanh nhẹn gói thanh Clarent trong tấm giấy ép bong bóng và nhét nó trở lại vào ống giấy bồi. Rồi cậu đẩy cái ống giấy vào ba-lô và nhấc túi lên vai. “Đã xảy ra chuyện gì vậy chú?” cậu hỏi. “Cái thứ nước nhiều màu sắc ấy. Đó là cái gì vậy ạ?”

“Món quà của một Elder,” Flamel giải thích trong khi vội vã lao xuống con hẻm. “Iris được mệnh danh là nữ thần cầu vồng bởi vì luồng điện đủ màu sắc của bà. Bà ấy cũng có quyền thâm nhập vào những vùng sông nước thuộc Vương quốc bóng tối trên dòng sông Styx,” ông kết thúc với vẻ đắc thắng.

“Mà điều đó có ý nghĩa gì ạ?” Josh hỏi.

Nụ cười rộng hoác của Flamel sao mà độc địa. “Sinh vật sống không thể chạm vào nước sông Styx được. Cú sốc làm quá tải toàn bộ phủ tạng và đánh chúng bất tỉnh.”

“Trong bao lâu lận chú?” Sophie vừa hỏi, vừa liếc trở lại những thứ trông như thể một đống quần áo vải vóc nằm chình ình giữa con hẻm.”

“Theo truyền thuyết bảo thì – một năm và một ngày.”

 

 

 

 

Các Tin Tức Khác