John Carter và công chúa hỏa tinh - Chương 1
Cập nhật ngày:
18/04/2012
Mời bạn đọc chương 1: Trên những ngọn đồi Arizona, trích trong tập 1 John Carter và công chúa hỏa tinh của bộ truyện phiêu lưu lôi cuốn.
Tôi là một người rất già; già tới mức nào tôi cũng không biết nữa. Có thể tôi đã một trăm tuổi, có thể hơn; nhưng tôi không thể nói được bởi vì tôi chưa bao giờ có tuổi như những người khác, mà tôi cũng không nhớ ra bất kỳ một thời thơ ấu nào đó của mình. Ở mức độ tôi có thể nhớ lại, tôi đã luôn luôn là một người đàn ông, một người đàn ông trạc ba mươi tuổi. Ngoại hình của tôi hôm nay cũng giống hệt ngoại hình của tôi cách đây bốn mươi năm hay hơn nữa. Thế nhưng tôi cảm thấy mình không thể tiếp tục sống mãi, rằng một ngày nào đó tôi sẽ chết một cái chết thật sự, không còn sự hồi sinh nào nữa. Tôi, kẻ đã từng chết hai lần, và vẫn còn sống sót, chẳng biết vì sao mình lại phải sợ hãi cái chết. Thế mà tôi vẫn có cùng nỗi sợ hãi nó như bạn, người chưa từng chết lần nào, và chính vì nỗi sợ này, tôi càng tin rằng mình sẽ phải chết.
Do niềm xác tín này, tôi quyết định viết lại câu chuyện về những quãng thời gian kỳ thú trong cuộc sống và cái chết của mình. Tôi không thể lý giải hiện tượng; tôi chỉ có thể kể lại bằng những ngôn từ của một người lính đánh thuê bình thường những sự kiện lạ lùng đã xảy đến với tôi trong suốt thời gian mười năm, khi mà thi thể của tôi nằm biệt tích trong một hang núi ở Arizona.
Tôi chưa bao giờ kể về câu chuyện này, cũng sẽ không một con người khả tử nào trông thấy cuốn bản thảo này cho tới khi tôi đã về cõi vĩnh hằng. Tôi biết rằng đầu óc của một người bình thường sẽ không tin vào một điều nó không thể hiểu, và do đó tôi không muốn bị công luận, các giáo sĩ và báo giới bêu rếu và lên án như một tên đại bịp trong khi tôi chỉ kể lại những sự thật giản đơn mà một ngày nào đó khoa học sẽ chứng minh. Có thể những đề xuất mà tôi thu lượm được về Hỏa tinh, cùng với tri thức mà tôi có thể viết ra trong cuốn biên niên sử này, sẽ bổ sung thêm một sự thấu hiểu sớm hơn về những bí ẩn của một hành tinh chị em của Trái đất – những bí ẩn đối với các bạn, chứ không còn là những bí ẩn đối với tôi.
Tôi là John Carter. Nhiều người biết đến tôi với cái tên Đại úy Jack Carter ở Virginia. Khi cuộc Nội chiến kết thúc, tôi mới nhận ra rằng mình sở hữu hàng trăm ngàn đôla (tiền miền Nam không còn sử dụng được) và không còn mang trách vụ của một viên đại úy kỵ binh trong quân đội nữa; một kẻ phục vụ cho một tiểu bang đã tan biến theo những niềm hy vọng của miền Nam. Không còn ai làm chủ, không một xu dính túi, với phương tiện sinh sống duy nhất của tôi là kỹ năng chiến đấu đã lỗi thời, tôi quyết định đi về miền tây nam và cố gắng cứu vãn tương lai đã sụp đổ của mình trong một cuộc săn vàng.
Tôi trải qua gần một năm tìm kiếm mỏ vàng cùng một sĩ quan quân đội miền Nam khác, Đại úy James K. Powell ở Richmond. Chúng tôi đã cực kỳ may mắn, bởi vì vào cuối đông năm 1865, sau nhiều gian lao và thiếu thốn, chúng tôi đã xác định được một mạch quặng thạch anh chứa vàng đáng kể nhất mà trong những giấc mơ cuồng nhiệt nhất chúng tôi cũng chưa từng hình dung tới. Powell, vốn là một kỹ sư địa chất, bảo rằng chúng tôi đã phát hiện ra một khu mỏ quặng đáng giá hơn một triệu đôla mà phải hơn ba tháng mới khai thác hết.
Vì các thiết bị của chúng tôi còn quá thô sơ, chúng tôi quyết định rằng một trong hai người phải quay về thế giới văn minh để mua sắm máy móc cần thiết và quay lại với một lực lượng nhân công đầy đủ để bắt đầu khai thác mỏ. Do Powell quen thuộc với địa phương đó, cũng như với những thứ thiết bị cơ khí khai thác mỏ cần yếu, chúng tôi quyết định tốt nhất là anh sẽ lên đường, còn tôi sẽ trông nom khu mỏ để tránh khả năng nó sẽ bị một tay săn tìm mỏ lang thang nào đó chớp mất.
Ngày 3.3.1866, tôi và Powell chất các thứ hành lý của anh lên hai con lừa, rồi anh chào tạm biệt tôi, cưỡi ngựa xuống đèo, băng qua một thung lũng rộng – chặng đầu tiên trong chuyến hành trình.
Buổi sáng hôm Powell lên đường, như hầu hết mọi buổi sáng ở Arizona, trời trong xanh tuyệt đẹp. Tôi có thể nhìn thấy anh và hai con lừa thồ nhỏ đang lần mò đi xuống đèo hướng về thung lũng, và trong suốt buổi sáng hôm ấy, thỉnh thoảng tôi lại nhìn xuống anh khi anh hiện ra trong một bình nguyên thấp. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Powell là vào khoảng ba giờ chiều khi anh đi vào bóng râm của một dãy núi ở phía bên kia thung lũng.
Chừng nửa giờ sau, tôi nhìn một cách ngẫu nhiên xuống thung lũng và vô cùng ngạc nhiên khi nhận thấy ba chấm đen nhỏ ở nơi mà tôi đã nhìn thấy bạn tôi và hai con lừa lần cuối. Tôi không lo âu một cách không cần thiết, nhưng càng cố tự thuyết phục mình rằng mọi chuyện đều tốt đẹp đối với Powell, và những chấm đen tôi đã trông thấy trên con đường anh đi qua chỉ là những con linh dương hoặc ngựa hoang, tôi càng không thể an tâm.
Từ lúc tới vùng này, chúng tôi chưa hề gặp một thổ dân da đỏ thù địch nào. Do vậy, chúng tôi trở nên vô cùng dửng dưng, và quen với việc nhạo báng những câu chuyện người ta kể về những tên cướp hung tợn thường lai vãng trên đường, giết và hành hạ bất kỳ người da trắng nào lọt vào bàn tay không biết xót thương của chúng.
Tôi biết Powell có mang theo vũ khí, hơn nữa, anh là một chiến binh từng trải; nhưng cả tôi cũng đã từng sống và đánh nhau nhiều năm với người Sioux ở miền Bắc, và tôi hiểu rằng anh có rất ít cơ may khi đối phó với cả một toán cướp Apache gian xảo. Cuối cùng, không thể nén lòng được nữa, tôi mang theo hai khẩu súng côn và một khẩu các-bin, quàng hai dây đạn vào người rồi thắng ngựa, khởi sự đi xuống con đường mà Powell đã đi qua lúc sáng.
Ngay khi vừa xuống cuối đèo, tôi thúc ngựa chạy nước kiệu, và cứ tiếp tục chạy như thế ở nơi nào địa hình cho phép, cho tới khi trời gần tối. Tôi phát hiện ra vị trí những dấu vết khác giao với con đường của Powell, đó là dấu chân của những con ngựa nhỏ không đóng móng. Tất cả có ba con, và chúng chạy nước kiệu.
Tôi vội vã đi theo dấu vết đó cho tới khi bóng đêm sụp xuống. Tôi buộc phải chờ cho đến lúc trăng lên, và do đó có cơ hội để xem xét lại tính chất cuộc truy đuổi của mình. Có thể tôi đã tưởng tượng ra những nguy hiểm không thể có, giống như những bà vợ già hay lo lắng không đâu, và khi đuổi kịp Powell, có lẽ anh sẽ cười tôi một trận. Tuy vậy, tôi không phải là loại người đa cảm. Việc làm theo bổn phận, dù nó có đưa đẩy tôi tới đâu, luôn luôn là một thiên chức trong suốt quãng đời tôi đã sống. Điều này giải thích cho những vinh dự đã được ba nước cộng hòa ban tặng cho tôi, cùng những tấm huân chương và những tình bạn hữu với một hoàng đế già hùng mạnh và những vị vua nhỏ hơn, mà trong khi phục vụ cho họ, lưỡi kiếm của tôi đã nhiều lần nhuộm máu.
Vào khoảng chín giờ, ánh trăng đã đủ sáng để tôi tiếp tục lên đường. Tôi dễ dàng theo dấu con đường với một tốc độ khá nhanh, đôi khi còn phi nước đại. Khoảng nửa đêm, tôi tới một vũng nước mà có thể Powell đã dừng lại nghỉ. Tôi đến gần và nhận ra nó đã hoàn toàn khô cạn, và không có một dấu hiệu nào của một lều trại mới.
Tôi nhận thấy dấu chân của những người cưỡi ngựa đuổi theo Powell đã dừng lại một lúc ở vũng nước, và luôn đi cùng một tốc độ với anh ấy. Lúc này tôi khá chắc rằng bọn người này là những người Apache và chúng muốn bắt sống Powell để thỏa mãn thú hành hạ, vì thế tôi thúc ngựa chạy tiếp với một tốc độ liều lĩnh nhất, hy vọng rằng mình có thể đuổi kịp bọn thổ dân này trước khi chúng tấn công Powell.
Những suy đoán đột ngột bị cắt ngang bởi hai phát súng nổ vọng lại từ phía xa trước mặt tôi. Tôi biết rằng lúc này Powell cần sự giúp sức của mình hơn lúc nào hết, và tôi thúc ngựa phi hết tốc lực theo con đường núi nhỏ hẹp gập ghềnh.
Tôi tiến về trước được chừng hơn một dặm, vẫn chưa nghe thấy tiếng súng nào khác thì con đường đột ngột đâm vào một cao nguyên nhỏ, gần đỉnh của con đèo. Tôi băng qua một hẻm núi hẹp ngay trước lúc đột nhiên lao ra vùng đất bằng trên núi, và cảnh tượng trước mắt làm tôi kinh hoàng thất đảm.
Những túp lều thổ dân phủ trắng cả dải cao nguyên nhỏ hẹp, và có lẽ đến năm trăm chiến binh đang vây quanh một thứ gì đó gần trung tâm của khu trại. Sự chú ý của chúng tập trung toàn bộ vào đối tượng đó nên chúng chưa nhận ra tôi. Lẽ ra, tôi có thể dễ dàng quay vào bóng tối của hẻm núi và bỏ trốn an toàn. Tuy nhiên, thật sự ý nghĩ này không hề hiện lên trong đầu tôi.
Tôi không tin rằng mình được sinh ra với thứ chất liệu tạo nên những vị anh hùng, bởi vì trong hàng trăm khoảnh khắc mà những hành động tự nguyện của tôi đã khiến tôi phải mặt đối mặt với cái chết, tôi không thể nhớ lại một chút gì những điều tôi đã suy nghĩ cho tới nhiều giờ sau đó. Rõ ràng, tâm trí tôi được cấu tạo theo cách nào đó khiến cho từ trong tiềm thức, tôi buộc phải đi theo con đường của bổn phận mà không cần phải đắn đo suy tính. Dù có thế nào chăng nữa, tôi chưa hề bao giờ phải hối tiếc rằng mình đã không chọn lựa sự hèn nhát.
Ở trường hợp này, dĩ nhiên, tôi chắc rằng Powell chính là trung tâm chú ý. Và chẳng biết ý nghĩ hay hành động của tôi đến trước, chỉ trong một thoáng ngắn ngủi sau khi nhìn thấy cảnh tượng đó, tôi rút hai khẩu súng ngắn ra, nhắm vào bọn thổ dân, bắn nhanh và hú to hết cỡ tiếng hú xung trận. Đơn thương độc mã, tôi không thể áp dụng những chiến thuật nào tốt hơn thế nữa, bởi bọn thổ dân – chắc hẳn rất bất ngờ và tin rằng phải có cả trung đoàn bên trên đầu chúng – liền quay ra và chạy nháo nhào tứ phía để lấy cung tên và súng.
Quang cảnh khi chúng chạy tứ tán để lộ ra khiến tim tôi tràn ngập nỗi sợ hãi và cơn cuồng giận. Powell nằm dưới ánh trăng vùng Arizona sáng rỡ, thân thể anh tua tủa những mũi tên thù địch của bọn thổ dân. Tôi chắc rằng anh đã chết rồi, thế nhưng việc tôi phải cứu anh thoát khỏi việc bị cắt xẻo thân thể cũng cần phải thực hiện nhanh chóng như chính việc cứu sống anh.
Phi ngựa tới gần anh, tôi nhảy khỏi yên và kéo thân hình anh nằm vắt qua lưng ngựa. Nhìn ra sau lưng, tôi chắc rằng nếu quay lại con đường cũ sẽ mạo hiểm hơn là tiếp tục băng qua cao nguyên. Vì vậy, thúc mạnh giày đinh vào con ngựa tội nghiệp, tôi phi nhanh tới đầu của con đèo mà tôi có thể nhận ra ở phía bên kia dải cao nguyên.
Lúc này bọn thổ dân da đỏ đã phát hiện ra tôi chỉ có một mình và đuổi theo tôi với những lời nguyền rủa, những mũi tên và những viên đạn. Vì chúng rất khó nhắm bắn chính xác dưới ánh trăng, đồng thời bối rối trước sự mạo hiểm bất ngờ và đột ngột của tôi, và hơn nữa tôi đang là một mục tiêu di động rất nhanh, tôi đã thoát khỏi làn tên mũi đạn của kẻ thù và chạy tới vùng bóng râm của những đỉnh núi vây quanh trước khi chúng có thể tổ chức một cuộc truy đuổi có trật tự.
Con ngựa của tôi được tự do chạy vì tôi biết rằng có lẽ tôi ít hiểu biết về vùng đất này hơn nó. Thế là nó chạy vào một hẻm núi dẫn tới ngọn của một dãy núi chứ không phải tới con đèo mà tôi đã hy vọng sẽ đưa tôi xuống thung lũng an toàn. Tuy nhiên, có lẽ nhờ sự việc này tôi mới có được cuộc sống và những kinh nghiệm lạ thường đã xảy đến với tôi trong suốt mười năm sau đó.
Ý thức đầu tiên của tôi là tôi đã chạy nhầm đường khi nghe thấy tiếng kêu thét của bọn truy đuổi hung hăng đột nhiên ngày càng nhỏ dần đi ở phía bên trái của tôi.
Tôi biết rằng chúng đã chạy qua phía bên trái dãy đá lởm chởm ở rìa của cao nguyên, còn phía bên phải là con ngựa mang trên lưng tôi và thi thể của Powell.
Tôi kéo cương ngựa tới một doi đất thấp nhỏ nhìn xuống con đường phía trái bên dưới, và thấy bọn thổ dân đang biến mất dần sau một đỉnh núi kế bên.
Tôi biết bọn thổ dân sẽ sớm phát hiện ra rằng chúng đã đi nhầm đường, và sẽ quay sang hướng này. Tôi đi thêm một đoạn ngắn nữa thì dường như có một con đường tuyệt diệu chạy vòng lên bề mặt của một vách đá cao. Con đường rộng và hướng lên trên theo đúng hướng mà tôi muốn tới. Vách đá dựng lên hàng trăm bộ Foot, đơn vị đo lường của Anh, khoảng 30 cm
ở mé phải của tôi, còn mé trái là một con dốc gần như thẳng đứng chạy xuống tới đáy hẻm núi đá.
Tôi đi theo con đường này khoảng một trăm thước Yard, đơn vị đo lường của Anh, khoảng 91 cm
thì có một khúc quanh gắt sang mé phải đưa tôi tới miệng của một hang núi lớn. Cửa hang cao khoảng bốn bộ, rộng cũng chừng ba đến bốn bộ, và con đường chấm dứt tại đây.
Lúc đó trời đã sáng. Việc không có bình minh vốn là một đặc tính lạ lùng của vùng Arizona, nhưng trời đột nhiên bừng sáng mà không có dấu hiệu gì báo trước. Tôi xuống ngựa, đặt Powell lên mặt đất, tuy nhiên dù xem xét thật cẩn trọng, tôi vẫn không tìm thấy một dấu hiệu mong manh nào của sự sống ở anh nữa. Tôi rót nước trong bình vào giữa đôi môi bất động của anh, rửa mặt và lau sạch đôi bàn tay, tiếp tục như thế suốt gần một giờ, đối diện với thực tế rằng tôi biết anh đã chết.
Tôi rất yêu mến Powell. Anh là một người đàn ông đúng nghĩa ở mọi khía cạnh, một chàng trai miền Nam tao nhã, một người bạn chân thành. Và với một nỗi đau sâu sắc, cuối cùng tôi từ bỏ những nỗ lực cứu sống anh.
Rời khỏi thi thể Powell ở cửa hang, tôi vào trong để thăm dò. Tôi phát hiện ra một cái hang rộng lớn, đường kính có lẽ chừng một trăm bộ và cao chừng bốn mươi bộ; nền hang êm ái và mòn nhẵn, cùng nhiều chứng cứ khác cho thấy trước đây từng có người cư ngụ trong cái hang này. Đáy hang sâu và chìm vào bóng tối nên tôi chẳng thể biết có còn khe hở sang một cái hang khác hay không.
Khi tiếp tục xem xét, tôi bắt đầu cảm thấy lơ mơ buồn ngủ do tác động của chuyến cưỡi ngựa dài và vất vả vừa qua, cùng cuộc chiến đấu và bị truy đuổi. Tôi thấy tương đối an toàn ở vị trí hiện tại vì biết rằng chỉ một người cũng có thể ngăn chặn cả một toán quân trên con đường tới hang động.
Buồn ngủ quá, tôi hầu như không thể cưỡng lại niềm ước ao mãnh liệt được ngã người xuống nền hang nghỉ ngơi một lúc, nhưng tôi biết làm thế cũng có nghĩa là nằm chờ cái chết đến từ bàn tay của những tên thổ dân, có lẽ sẽ tới đây vào bất cứ lúc nào. Tôi cố gắng đi ra cửa hang nhưng lại lảo đảo nghiêng người vào bức vách hang rồi té sấp xuống nền hang.
Đón đọc chương 2: Cuộc tẩu thoát của một người đã chết