Nuôi dưỡng tâm hồn - khơi nguồn tri thức

Góp Ý

Chuyện trò với tác giả của “Men bờ vực thẳm” – Thomas Melle
Cập nhật ngày: 24/10/2018

Thomas Melle, 41 tuổi, đã được đề cử nhiều lần cho giải Sách Đức (Deutscher Buchpreis): 2011 với “Sickster” vào vòng áp chót, 2014 với “3000 Euro“ vào vòng chót. Cuốn mới nhất của anh lần đầu tiên công khai hoá căn bệnh rối loạn tâm lý của mình.

 

TUẦN BÁO SPIEGEL: CHUYỆN TRÒ VỚI THOMAS MELLE

“MỘT THẰNG HỀ LOẠN ÓC”

Chào anh Melle, cuốn sách của anh làm tôi xúc động như đã lâu chưa từng: Tôi đọc nó trong tiệm cà phê, xung quanh đầy người, vì buổi tối ở nhà một mình rất khó đọc. Bởi nó làm tôi sợ hãi, u buồn, rồi lại cười phá lên. Một vài giai thoại kỳ quái đến nỗi đọc xong tôi có cảm giác phê như dùng ma tuý.

Thế mà có người nói là văn chương không có tác động đấy! Nghiêm túc nhé: tôi thích nghe điều đó, và đúng thế. Thực tế là ma tuý kích động chứng hoang tưởng và đặc biệt nguy hiểm đối với những người như tôi.

 

Các giải thưởng văn chương của Thomas Melle

Tác phẩm MEN BỜ VỰC THẲM của Thomas Melle


Anh có thấy phê khi viết ra?

Việc viết sách đưa tôi trở lại những chốn điên rồ mà tôi từng biết, song tôi bước vào đó trong bộ đồ bảo hộ - vì tôi là người thuật lại. Mọi thứ tái hiện như một bối cảnh từng bị lãng quên. Nhưng nó không gây hại cho tôi trong bộ đồ bảo hộ.

Anh viết về chứng rối loạn tâm lý lưỡng cực của mình.

Tôi không ưa khái niệm đó, vì nó quá nông. Nó có công năng bao quát mọi dạng thức rối loạn, kể cả ở mức độ nhẹ, và không làm tổn thương người nào. Nhưng chẳng ai hiểu khái niệm “lưỡng cực” là gì, thậm chí tôi cảm thấy người ta bằng lòng vì thế. Gọi là chứng “hưng trầm cảm” chân thực hơn. Thoạt tiên tôi hưng cảm, sau đó trầm cảm.

Anh bị dạng rối loạn nào?

Lưỡng cực typ I. Dạng nặng nhất, và tôi bị lần nữa ở dạng đặc biệt trầm trọng, khiến các chu kỳ hưng cảm và trầm cảm kéo dài rất lâu, đến tận một năm rưỡi, và rất mãnh liệt. Thêm vào đó là tôi mắc chứng hoang tưởng. Bệnh của tôi có thể gọi thẳng là điên, và con bệnh huỷ hoại chính mình, huỷ hoại đời mình.

Anh đã làm gì trong chu kỳ hưng cảm?

Tôi phá phách, sáng dậy đã nốc rượu, nợ tiền để đi du lịch, đi nhà hàng, say bí tỉ ở quán bar. Tôi cũng sung sướng mua sách để rồi hôm sau bán lại với giá rẻ như cho. Đôi lúc tôi có ít tiền đến nỗi phải dốc xì dầu vào họng, đơn giản là để có cảm giác được ăn uống.

Anh kiếm tiền ở đâu ra?

Ở trạng thái hưng phấn thì ta tràn ngập năng lượng và cực kỳ có sức thuyết phục, nhưng không biết điểm dừng. Ta có thể khiến một chủ ngân hàng tin là ta sắp đến Harvard trong nửa năm tới. Ta là diễn viên thủ vai chính ta.

Anh có hung hãn không?

Thỉnh thoảng. Đã có lúc tôi tấn công bà giám đốc nhà xuất xuất bản của tôi ngày xưa. Bà ấy đến một buổi đón tiếp với cánh tay bó bột, và tôi cho là bà ấy giả vờ

Rồi sao nữa?

Tay bà ấy bó bột thật! Tôi không còn ở nhà xuất bản ấy nữa.


Anh đổi từ nhà xuất bản Suhrkamp sang Rowohlt Berlin. Là độc giả, tôi có được phép buồn cười khi nghe những giai thoại như thế không?

Có chứ, anh cứ cười đi, anh phải cười. Kệ cho mọi tủi hổ và bi kịch ở tôi. Vì nếu không thì tôi không biết xử lý những chuyện đó ra sao. Có một thằng hề loạn óc chạy hùng hục trên phố và gây ra hết thảm hoạ này đến thảm hoạ khác. Một trò tếu hiện sinh.

Là nhà văn, anh có bị mê hoặc bởi ý muốn thuật lại vài trải nghiệm cho độc đáo hơn thực tế?

Tôi chẳng thấy gì là độc đáo trong đó. Ý anh là điên? Không, tôi không thuật lại chuyện gì điên hơn có thật. Mọi chuyện đều xảy ra đúng thế.

Anh thực sự nghĩ là gặp Picasso ở vũ trường Berghain?

Không phải cụ Picasso. Mà thanh niên Picasso. Gã mà tôi cho là Picasso. Gã ngồi trong nhà vệ sinh và tán gẫu với mấy tay anh chị, thắt lưng khảm chữ F.U.C.K. vàng. Tôi đã hắt vang đỏ vào lòng gã. Tôi chưa bao giờ ngửi được Picasso và tranh của ông ta.

Ở Wuppertal anh cho là đã gặp Thomas Bernhard.

Vâng, ở tiệm McDonald's trong ga. Bernhard đang ăn bánh kẹp Big Mac và thấy nó rất dở.

Có đúng là anh đã làm tình với Madonna?

Hồi ấy tôi tin là thế.

Hôm đó Madonna ra sao?

Tôi còn nhớ là thoạt tiên ngạc nhiên thấy cô ấy vẫn phong độ lắm, gần như trong các tấm hình khoả thân cuối thập kỷ 70.

Hôm nay đọc lại, anh có còn buồn cười không?

Quan trọng nhất với tôi là, dù gì chăng nữa, khi viết sách không được cay đắng hay nghiệt ngã. Tôi thấy vài thứ buồn cười, nhưng cũng luôn luôn cười ra nước mắt. Tôi phát hoảng.

Quan niệm về thế giới như thế nào để có cơ sở cho những tưởng tượng ấy?

Đó là tưởng tượng bá đạo rập khuôn, tưởng mình là đấng Messiah: tất cả lịch sử nhân loại đều hướng tới mình. Tôi đọc được trong mọi bài viết, bài hát, tài liệu những chỉ dấu cho thấy sẽ có một nhân vật xuất hiện vào thời điểm chuyển giao thiên kỷ, là lúc thế giới hiển hiện trong bản ngã của mình. Và nhân vật đó chính là tôi. 1999, trong cơn cuồng thiên kỷ, tôi sa vào chu kỳ hưng cảm đầu tiên, sau đó còn hai lần nữa, 2006 và 2010.



Các cơn của anh hay bị kích hoạt bởi nhạc pop. Cái gì khiến anh hứng chịu nhiều nhất các hình dung hoang tưởng?

Một người hưng cảm cấp tính khó đọc Tolstoi một mạch liền, vì các ý nghĩ chuội đi. Ngược lại, các bài pop ngắn thường có tác động tức thì, sự đơn giản   cộng với logic đoán ý và hình thức phát ngôn: thường hát về Anh hay Em. Anh hay Em nào đó cũng có thể là chính ta. Thật phù hợp để nhồi thêm các cơn hoang tưởng nhỏ xíu vào cơn lớn.

Tại sao anh chỉ để tâm vào các nghệ sĩ nổi tiếng?

Tôi là sản phẩm của thời đại tôi. Các nghệ sĩ nổi tiếng theo sát chân ta, họ tung lên mạng từng bữa ăn. Chúng ta quy chiếu mình vào họ và đi tìm điều mới mẻ.

Bernhard không lên mạng xã hội, ông ấy chết rồi.

Nên xem điều đó trong ngữ cảnh Messiah: Tôi là một người nổi tiếng ẩn danh. Những người có tác phẩm nói về tôi đến hỗ trợ tôi. Họ thoáng xuất hiện ngoài đường, ngó quanh, ra hiệu cho tôi. Cả những người chết cũng dường như chưa chết. Tôi cho là ở đâu đó trên dãy núi Alps có một khu nghỉ dưỡng, và Thomas Bernhard, Ingeborg Bachmann, Samuel Beckett ở đó.

Nghe như ý tưởng vĩ thanh cho một tiểu thuyết giả tưởng.

Nhưng cuộc sống của tôi là thế. Có thể hình dung ra vai trò Messiah không hề đơn giản, đột nhiên tất cả mờ ảo xoay quanh tôi.

Trong cuốn này anh tự vấn: “Làm thế nào để kể về chính mình là một thằng ngốc?”

Tôi quan sát nhân vật Tôi như nhân vật chính của một bộ phim truyền hình nhiều tập đã quay xong – cho đến khi nghĩ bụng: bộ phim nhiều tập đó chính là cuộc đời mình! Nhờ vậy mà luôn có thể mỉa mai. Nhưng sẽ sai lầm, gần như thô tục, nếu chỉ kể nó ra như một bi hài kịch theo kiểu hài hước. Nó là một vở kịch cay đắng mới đúng.

Anh đã định tự sát hai lần.

Nếu trong cuộc đời một người mắc bệnh hưng cảm có gì chắc chắn xảy ra, thì đó là trầm cảm nối tiếp hưng cảm. Càng hưng cảm mạnh và dài bao nhiêu thì giai đoạn trầm cảm mạnh và dài bấy nhiêu. Nó mang dấu ấn sâu sắc của nỗi tủi hổ và kinh sợ vì đã không là chính mình, vì đã huỷ hoại danh tiếng và cuộc đời mình.

Anh vào bệnh viện tâm thần mấy lần?

Chắc chắn mười lần. Có những lần dài vài tháng, khi bị trầm cảm, đôi khi chỉ vài hôm. Trong chu kỳ hưng cảm người ta không tự nhận thấy mình có bệnh, các bạn tôi đưa tôi vào viện, có lần phải nhờ cảnh sát giúp. Hôm nay nhìn lại thì thế là đúng, nhưng hồi đó thật đáng sợ.

Anh giao lưu với các bệnh nhân khác ra sao?

Người điên thường thấy biểu hiện điên ở người khác, chứ tuyệt đối không thấy ở mình: có một cô gái cho rằng Osama Bin Laden là bố mình, tôi nói thẳng với cô ta là điều đó không đúng - ở một thời điểm mà tôi nghĩ mình là con trai ngôi sao nhạc pop Sting.

Bệnh viện tâm thần là một chốn thâm cung bí sử.

Nếu đã biết rồi thì bệnh viện tâm thần là nơi buồn tẻ nhất thế giới. Một nơi tập trung nhiều căng thẳng song lại rỗng tuếch: đôi khi có những cơn phá phách khủng khiếp và thù nghịch nhất, nhưng chủ yếu nó là cỗ máy chạy không tải có cấu trúc vô nghĩa. Chờ đợi hư vô. Như một vở kịch của Christoph Marthaler, chỉ tội là kéo dài cả tuần, cả tháng.

Bây giờ người ta dè bỉu bệnh nhân trầm cảm. Thậm chí có xu hướng hình sự hoá họ.”

Anh xử trí ra sao tình trạng không ai hiểu rõ chuyện gì bị rối loạn trong đầu người lưỡng cực?

Nếu thuốc men hiệu nghiệm thì không cần chứng cứ nào cả, vì ở đây thực sự là ranh giới sống chết. Thực tế ở đây có sự gia tăng xấu xí là bản thân các bác sĩ cũng lúng túng trong một vài vấn đề. Với cuốn sách này, tôi muốn làm dịu bớt nét kỳ bí của bệnh này, tôi muốn khai sáng sự tù mù, tôi muốn chỉ ra cách giải thích một vấn đề thực ra không thể hiểu nổi.

Anh có hài lòng với chế độ chăm sóc trong bệnh viện tâm thần?

Một phần những gì xảy ra ở đó là vô nhân đạo. Người ta bị vô hiệu hoá về tâm lý và trói buộc về thể xác, rồi sau đó được khám chớp nhoáng. Đúng như những lời đồn thổi tồi tệ nhất. Cần có nhiều tiền hơn, nhiều chỗ hơn, nhiều nhân sự hơn. Cũng quan trọng tương tự đối với xã hội chúng ta là cần suy nghĩ lại cách đối xử với các bệnh nhân cũ, còn được gọi là những người từng kinh qua bệnh viện tâm thần. Hiện tại họ là những kẻ nhúng chàm. Nhiều người nghĩ: một lần bệnh là cả đời bệnh. Về lý thuyết thì mọi người đều cởi mở lắm chứ, nhưng thực tế họ đầy định kiến.

Anh nhận ra điều đó ở đâu?

Bệnh tật cũng chìm nổi theo mốt và trào lưu. Trong những năm đầu thế kỷ mới, khi bệnh trầm cảm của một số vận động viên như Sebastian Deisler hay Robert Enke lộ ra, xã hội tỏ ra đồng cảm. Thời đó qua rồi. Bây giờ người ta dè bỉu bệnh nhân trầm cảm. Thậm chí có xu hướng hình sự hoá họ. Trong khi đại đa số chỉ là những con người gục ngã đang từ từ muốn đứng thẳng dậy. Hiện nay người ta loạn xị ngậu lên tìm cách giải thích, và chính sự loạn xị đó hoàn toàn có chất hưng cảm.

Anh nói bóng gió đến cuộc tranh luận sau vụ cuồng sát ở München?

Không chỉ thế. Tôi đã quan sát kỹ tiến triển các cuộc tranh luận về tay phi công của Germanwings hồi 2015. Đột nhiên, trái với bản chất của nó, chứng trầm cảm được coi là phương tiện giải thích cho tội ác. Điều đó động chạm trực tiếp đến người cùng cảnh ngộ. Trong không khí hôm nay có lẽ không vận động viên thể thao nào dám tự thú là bị trầm cảm.

Anh hiểu mốt mới này như thế nào?

Có lẽ nên chẩn đoán chứng rối loạn nhân cách dạng ái kỷ ở những kẻ cuồng sát. Chỉ có điều những rối loạn như thế không hiếm, thậm chí trong thời đại selfie của chúng ta còn là vấn đề của toàn xã hội. Nhấn mạnh chứng trầm cảm của các thủ phạm là tách rời vấn đề khỏi xã hội. Tức là vấn đề cần được đưa vào bệnh viện, được tách rời theo nghĩa bệnh lý, đồng thời trong tranh luật trụ lại một vết nhơ sắc nét hơn.

Nguyên nhân bệnh của anh là gì?

Một số nhà nghiên cứu cho rằng bệnh nhân lưỡng cực có số nơ-ron nhiều hơn một phần ba ở cuống não trước và vùng đồi não so với người khoẻ mạnh, đồng thời họ sở hữu ít chất xám và chất trắng hơn ở một số trung khu nhất định, ví dụ ở vỏ não. Do đó có quá nhiều hoạt động ở nơi hội tụ các cảm nhận qua giác quan và điều tiết hoạt động của não bộ. Đồng thời, sự nhộn nhạo đó bị hở ra ngoài quá nhiều, không được bảo vệ tốt bởi lớp vỏ quá mỏng.

Ý tôi hơi khác: vì sao bệnh này lại rơi trúng vào anh?

Có lẽ tôi phải đọc cho anh nghe cả quyển sách mới đủ ý. Người ta đang đi tìm nguyên nhân trong khi ý thức hoàn toàn là không bao giờ tìm được đầy đủ. Nói cho cùng, đó là một dự án lãng mạn.

Anh viết trong sách là nhiều bệnh nhân lưỡng cực có tiền sử ma tuý. Anh cũng thế?

Tôi có xu hướng uống rượu, đôi khi đến bét nhè. Nhưng không dính dáng gì đến ma tuý.


Anh tự gọi mình là người nghiện thông tin. Email, Twitter, Facebook có ảnh hưởng gì đến người hưng cảm?

Liên tục nhập tin, liên tục phân tâm. Tệ nhất là những van thoát khủng khiếp: người ta quá dễ dàng đi theo các xung lực và tung những quan sát vớ vẩn lên mạng. Đang lên cơn mà vào được internet là có thể ta bị một số người tuyên án hết phần đời còn lại.

Anh có tìm thấy nguyên nhân căn bệnh trong tiểu sử của mình?

Tôi không tin vào những con đường một chiều nhất nguyên chỉ duy nhất quy về thời thơ ấu. Nếu thế thì phải có nhiều người rối loạn lưỡng cực hơn từ các gia đình phức tạp, so với các gia đình được coi là tử tế. Thực tế không thế. Các nguồn khác nhau nêu ra 3% đến 5% dân số mắc phải một dạng lưỡng cực trong đời, ở mọi giai tầng xã hội.

Nhưng có nguyên nhân trong tiểu sử của anh.

Tất nhiên, chỉ tin vào một nguyên nhân là ngu, nhưng không tin vào nguyên nhân nào cũng thế. Tôi xuất thân từ một gia đình tiểu thị dân phức tạp, có ông bố dượng nát rượu, đi học ở Aloisiuskolleg, một trường dòng Tên ở Bonn. Tôi là đứa trẻ nhà nghèo giữa đám bạn giàu có và quý tộc. Tôi có điểm cao nhất lớp, lên đại học, sớm mơ ước thành nhà văn. Có một luận điểm cho rằng chứng rối loạn lưỡng cực liên quan đến xu hướng mong muốn thích nghi quá mức: người ta muốn chiều ý tất cả mọi người xung quanh, cho đến khi gẫy lưng vì mọi mong muốn. Người ta bị ném đi ném lại giữa hai thái cực: mong muốn thích nghi và nỗ lực tìm cái riêng mình.

Thời ở nội trú đã củng cố sự khao khát tinh thần tập thể của anh.

Ôi, anh chẩn bệnh như một điều trị viên, tôi sợ rồi đấy. Nói vẻn vẹn vài câu về chủ đề này có lẽ tốt cho anh và tờ SPIEGEL, nhưng có hại cho tôi. Để nói cho đủ chính xác, tôi phải viết sách.


Trước đây vài năm báo chí ầm ĩ vì vụ bê bối lạm dụng tình dục ở Aloisiuskolleg. Anh có bị dính không?

Không, không trực tiếp. Nhưng cuốn tiểu thuyết về sự phát triển một nhân vật của riêng tôi bắt đầu với những tín đồ dòng Tên. Vụ bê bối đó làm rung chuyển cả nền tảng câu chuyện đời tôi. Nó làm sứt mẻ câu chuyện.

Giai thoại hưng cảm thứ hai diễn ra trong thời gian làm một dự án sân khấu của anh. Ngẫu nhiên?

Tất nhiên, nhà hát là một ổ nát rượu, nhất là ở tỉnh lẻ, và bỏ qua khía cạnh ấy thì nó cũng là mảnh đất màu mỡ cho các rối loạn tâm lý. Các buổi tập là sân khấu cho những diễn biến tâm động học, giống như trong một gia đình xập xệ, nhưng gấp gáp hơn nhiều. Tôi còn nhớ một buổi tập mà tất cả phát rồ và quát vào mặt nhau, một nữ diễn viên nổi tiếng kéo trật vú ra. Cuối cùng, tôi – thực ra là người điên – đề nghị mọi người bình tĩnh.

Bệnh của anh để lại dấu ấn gì trong các tiểu thuyết?

Tất cả các tác phẩm của tôi đều có nhân vật giống và gần giống tôi, kịch bản sân khấu cũng thế. Nhà báo Magnus trong tiểu thuyết “Sickster” mắc chứng hưng cảm và loạn thần; Anton, cựu sinh viên Luật vô gia cư trong “3000 Euro”, gục ngã trong một cơn hưng cảm. Tuy nhiên tôi không gọi trực tiếp tên chứng bệnh của Anton ra. Tôi muốn giữ thể diện cho anh ấy.

Anh có sáng tác trong các chu kỳ hưng cảm hay trầm cảm không?

Trong những năm xen giữa. Khi bị trầm cảm thì không làm được gì, khi hưng cảm toàn làm trò ngu xuẩn.


Tôi suýt nữa thì cá là nhiều đoạn trong “Sickster” là sản phẩm của một người hưng cảm: anh tung hứng với ngữ nghĩa, hình ảnh ngôn ngữ, các tuyến hành vi – một cuốn sách đầy hứng khởi.

Tất nhiên các kinh nghiệm của tôi cũng cùng chảy vào khuôn. Nhưng tôi buộc phải làm anh thất vọng: những bài tôi viết trong chu kỳ hưng cảm giỏi lắm là nghệ thuật dada nhảm nhí.

Văn chương thường xoá nhoà ranh giới giữa thực tế và hư cấu, tương tự như những gì xảy ra trong đầu người rối loạn tâm lý. Liệu điều đó có nguy hiểm cho một người mắc bệnh rối loạn lưỡng cực mà lại làm nhà văn?

Đúng là có những điểm giống nhau. Thêm nữa là văn chương luôn tìm cách dùng những biểu tượng đa nghĩa và làm chúng phong phú thêm bằng mâu thuẫn. Khi một người lưỡng cực viết văn kiểu ấy, có thể sẽ tạo ra những tác động kỳ quái vào tâm lý vốn đã mục ruỗng của mình. Hư cấu thẩm thấu vào thực tại và phá phách ở đó. Lụt lội chỉ dấu, ung thư ngữ nghĩa.

Có lẽ anh nên ngừng viết.

Sao cơ? Với tôi thì xưa nay sống mới khó, chứ viết thì không. Viết giống như một kỹ năng sắp xếp mọi thứ cho trật tự, hoặc bắt chước một sự mất trật tự để nó không làm ta sợ nữa.


Nghe nói trong giới nhà văn và nghệ sĩ có nhiều người rối loạn lưỡng cực.

Có thể đúng. Nhà tâm lý học Mỹ Kay Redfield Jamison, cũng là người bị bệnh ấy, đã viết về chủ đề này. Hình như Herman Melville cũng bị hưng trầm cảm. Cả Heinrich von Kleist, Virginia Woolf, và trong số những người trẻ hơn có Sarah Kane.

Trong một tiểu luận viết cho tờ SPIEGEL trước đây mấy năm, nhà văn Sibylle Mulot nói về sự “sáng tạo trong hưng cảm”. Có gì kết nối bệnh nhân lưỡng cực với nghệ sĩ?

Có thể cả hai đều có chung xu hướng tư duy ở quy mô lớn, làm gì cũng phải “hoành tráng hơn thật”. Họ mẫn cảm với những khoảnh khắc xuất thần, những nghĩa cử lớn lao và ý niệm trào dâng. Tuy nhiên đa số các nghệ sĩ thành công mà bị chứng lưỡng cực thì đó là lưỡng cực typ II, tức là hưng cảm thể nhẹ. Họ “chỉ” hưng cảm nhẹ, không tự huỷ hoại mình một cách vô tri, thỉnh thoảng có thể tập trung làm công việc của mình. 

Tôi phải giành lại câu chuyện của mình. Tôi phải nhúng tay vào chàm để không sợ vết chàm nữa.

 

Nghĩa là: điên nhiều thì hại, điên ít thì lợi.

Tôi phản đối khuôn mẫu về thiên tài và điên rồ. Nó vừa tạo ánh hào quang lại vừa đồng thời bôi gio trát trấu người bệnh. Giống như các “nhà khoa học điên rồ” trong truyện comic hay trong phim. Nó đẩy tiếp người bệnh ra xa khỏi người bình thường, khoẻ mạnh và hoạt động tốt.

Huyền thoại nghệ sĩ luôn kèm một chút điên rồ.

Nhìn từ bên ngoài có thể đúng thế. Huyền thoại vỗ về niềm khát khao của con người đi tìm sự bạo liệt, kích động, vượt ngưỡng. Nhưng họ quên cái giá cao phải trả. Giá mà được, tôi xin trả lại ngay lập tức thẻ thành viên của cái câu lạc bộ quý phái này.

Cuốn sách mới của anh có khác gì các tác phẩm trước?

Là văn chương thôi, nhưng tất cả có thật, không bịa gì hết. Tôi không nhằm đến hiệu ứng và kịch tính, mà đó là cuộc đời tôi, là bệnh của tôi ở dạng chân thực. Tôi phải giành lại câu chuyện của tôi, phải kể được nó ra và qua đó phá bỏ sự huý kị. Tôi phải nhúng tay vào chàm để không sợ vết chàm nữa.

Cho đến nay có nhiều người biết anh có bệnh không?

Thực tế là tôi không bao giờ biết có những ai biết. Tôi cảm nhận ngày càng nhiều tiếng xì xào nào đó sau lưng. Bệnh này kiêng bị nhắc đến, mọi người lúng túng không biết nên đặt câu hỏi gì, hoặc họ cứ thế đưa ra kết luận sau lưng tôi. Ai muốn biết thì bây giờ có thể đọc sách này.

Sức khoẻ anh bây giờ thế nào.

Tôi thở phào.

Anh lại là mình ngày xưa chưa?

Không bao giờ có tôi của ngày xưa. Nhưng có một tàn lửa lấp loé, một chút sót lại của tôi trước khi bị bệnh để tôi bấu víu vào. Nghe như một bài hát sến súa của Peter Maffay: đâu đó trong sâu thẳm tôi vẫn là cậu sinh viên của năm 1999, trước khi đổ bệnh. Tôi không hề thấy bất hạnh. Tôi không việc gì phải trưởng thành theo cách của những người khác.


Ai hay cái gì đã cứu rỗi anh?

Có một người bạn luôn chìa tay giúp tôi. Có một người làm đại diện văn học cho tôi. Có mẹ tôi, kệ cho mọi rối rắm. Và có hạnh phúc của một tình yêu trong những thời khắc tối tăm. Thêm vào đó là cái mà tôi gọi là Indie­Argument: một ông bác sĩ trưởng chỉ cho tôi biết chất Liti có trong tự nhiên, tức là không công ty dược phẩm nào dựa vào đó để kiếm bộn tiền được nữa. Thế là tôi nghĩ, hay quá, phải dùng nó thôi.

Thuốc có tác dụng gì?

Nó cứu mạng tôi, đồng thời cũng làm hại tôi. Liti gây ra nhiều mụn trứng cá, do đó tôi phải thay bằng valproic acid. Nhưng lại có lắm tác dụng phụ: lên cân, rụng tóc, uể oải, giảm cảm xúc và tư duy. Đôi khi tôi mất hết ham muốn tình dục.


Thuốc tác động đến viết lách ra sao?

Tôi không rõ, nhưng đôi khi tôi tự hỏi phong cách của tôi bị giảm sút, bị “cổ điển” đi bao nhiêu. Phải chăng tuổi cao, khi kết thúc thời trai tráng bão táp, đã làm tôi kém bùng phát trong cách viết, kém chói lọi và biểu cảm? Hay valproic acid đã chặt hết gai góc của cuộc sống tình cảm? Tôi nghi là thuốc thang đã thấm vào câu chữ của tôi, vào tận gan ruột chúng. Nhưng tôi khoẻ lên, ngày càng khoẻ lên. Khả năng tiềm tàng là bay vút lên cao, và biết đâu sẽ cháy thành than.

Anh có sợ bệnh tái phát?

Tôi hy vọng, vâng, tôi cầu nguyện sẽ thoát. Giả sử tôi lại bị hưng cảm, ước gì tôi được ai đó ấn cuốn sách này vào tay. Có thể nó sẽ cứu tôi.

Cảm ơn anh đã tiếp chuyện.

-----

Người phỏng vấn: Tobias Becker, biên tập viên báo SPIEGEL.

Bản quyền: DER SPIEGEL
Photo:
Gene Glover

Các Tin Tức Khác