Tôi vẫn luôn thắc mắc một điều khi đọc xong những câu chuyện của chú: “Liệu những nhân vật trong truyện có thật hay không?”. Khi đọc Kính vạn hoa, tôi đã từng nghĩ rằng chú không thể giỏi đến mức có thể tưởng tượng ra biết bao nhiêu là cuộc phiêu lưu, những vùng đất mới, những nhân vật ám ảnh đến như thế…
Vậy nên
nhất định phải có một bộ ba Quý ròm, Tiểu Long, nhỏ Hạnh ở đâu đó trong Sài
Gòn. Và chú, hằng ngày luôn theo dõi nhất cử nhất động của ba bạn này. Có thể
chú nấp trong bụi cây gần nhà, gần trường. Có thể chú sẽ cải trang thành thầy
giáo (biết đâu chú là thầy giáo thật!). Có thể chú là ba của nhỏ Hạnh (không biết
sao tôi cứ nghĩ phải là nhỏ Hạnh). Có thể chú chế tạo được thuốc tàng hình như
trong tập truyện Lọ thuốc tàng hình để
hằng ngày thu nhặt những câu chuyện sinh động của ba bạn trẻ thành phố. Cứ tưởng
tượng như thế, tôi đã nghĩ chú không chỉ là nhà văn mà còn là một thám tử nữa.
Thế nên, tôi vẫn tha thiết được vào Sài Gòn, dạo quanh những con đường, để có
khi bất chợt bắt gặp bốn người (một kính cận, một ốm tong ốm teo, một mập mập dễ
thương và một người đeo mắt kính đen to thật to theo sau “rình rập”) là tôi có
thể nhận ra ngay những người bạn đã ăn sâu vào tâm trí. Và biết đâu, tôi cũng sẽ
trở thành một nhân vật tình cờ ngang qua trong một câu chuyện nào đó của chú.
“Biết đâu”, tôi vẫn cứ mơ như thế mỗi khi gấp cuốn sách lại.
Đó là
những suy nghĩ của tôi năm lớp 8, lúc tôi tha cuốn truyện Kính vạn hoa dày cộm trong thư viện về nhà ngấu nghiến đến mờ cả
hai mắt. (Đó có lẽ là cuốn truyện chữ
dày nhất đến bây giờ tôi đã đọc). Giờ tôi đã là sinh viên năm 3. Ba năm vào Sài
Gòn, chưa lần nào tôi bắt gặp giấc mơ của mình khi đi ngang qua những con phố
đông đúc ở thành phố này. Tôi cảm thấy Sài Gòn dường như thiếu đi một cái gì đó
quan trọng đối với tôi. Có lẽ đó là những mảng màu tuổi thơ do tôi tưởng tưởng,
tô vẽ cho thành phố qua những câu chuyện
của chú. Cũng có lẽ, chẳng có điều gì mất đi, chỉ là khi ngày một lớn thêm, tôi
đã không còn tin vào suy nghĩ của mình ngày xưa nữa. Và, tôi cảm thấy buồn nhiều
vì điều đó.
Sau này,
tôi đọc nhiều truyện dài của chú. Mỗi lần đọc là tôi có cảm giác như tìm thấy một
phần câu chuyện của mình trong những câu chuyện của chú. Tôi rất thích đọc cuốn
Đảo mộng mơ. Tôi nhớ mình đã đọc nó
vào một buổi trưa hè và đã cười từ đầu đến cuối truyện. Có cái gì đó mát lành
trong một buổi trưa hè gắt gỏng của tôi. Và tôi thắc mắc rằng liệu đó có phải
là hình ảnh, là giấc mơ của chú ngày nhỏ? Có nhiều chi tiết tôi đã từng nghĩ chắc
trẻ con nào cũng suy nghĩ như thế. Mỗi lần đọc truyện của chú, cái giọng điệu
“tưng tửng” và cách so sánh lạ lạ, ngộ ngộ làm tôi không thể nhịn cười. Tưởng
chừng như chú đang kể chuyện mình nghe chơi vậy thôi chứ đâu phải sắp đặt con
chữ thành câu, thành truyện. Tưởng chừng như chú đang nhâm nhi chén trà, mắt mơ
màng kể chuyện ngày xa lơ xa lắc của mình cho một “anh” nào đó thôi, đến cuối mỗi
chỗ đắc chí lại chêm vô vài câu như: “ Hồi nhỏ anh không như rứa hả?”, “Hồi nhỏ
anh không lập phiên tòa xử tội ba mẹ hả?”, “Hồi nhỏ chắc anh cũng mơ được phiêu
lưu đảo hoang, làm cướp biển chớ!”… Và tất nhiên, cái “anh” ngồi nghe đó đang gật
gù, khoái chí, vỗ đùi đôm đốp. Chú đang kể chuyện ngày xưa thôi, nên con nít đọc
thấy dễ hiểu, thấy gần. Người lớn đọc lại cảm thấy dễ chịu, thấy nhớ. Thế nên
đâm ghiền, đâm khoái. Thế nên có sức hấp dẫn kì lạ.
Có một lần
tôi đi xe buýt, có chú đó hỏi tôi quê ở đâu. Tôi trả lời tôi ở Quảng Nam. Chú
đó cười bảo: “Quê con đẹp lắm đó!”. Tôi hỏi: “Chú đến quê con lần nào chưa?”
thì chú đáp: “Chú đọc truyện Nguyễn Nhật
Ánh, trong truyện miêu tả quê con rất đẹp. Có dịp chú nhất định sẽ ghé thăm”.
Tôi định trả lời là “Quê con có Hội An và Mỹ Sơn là di sản văn hóa thế giới đó
chú!” nhưng lại thôi. Bởi tôi cảm thấy tình cảm giản dị như thế dành cho quê
mình thật đáng quý biết bao, đâu cần phải nói thêm điều gì nữa!. Cảm ơn chú
Ánh, dẫu quê mình dù còn nghèo, còn khổ nhưng trong những câu chuyện vẫn có nét
đẹp mơ màng của giếng nước đêm trăng, vẫn có hơi thở dịu dàng, xinh tươi của tà
áo nữ sinh, vẫn đậm đà trong từng tô mì Quảng, hay ám ảnh lạ lùng với những
ngôi nhà đầy hoa vàng cánh thị, cánh rừng sim ngày rong chơi... Dẫu không ở
Thăng Bình, chưa qua Tam Kì, tôi vẫn cảm thấy những điều đó thật thân thuộc. Để
rồi, những lúc xa quê, cầm trên tay cuốn truyện của chú như đang cầm trên tay
thức quà dung dị của quê hương, tưởng chừng như gần lắm với “lon nén”, tô mì,
“ren rứa”…
Tôi
không biết chú có đọc được những dòng này của tôi hay không. Nhưng tôi luôn hy
vọng vào một ngày nào đó, tôi sẽ trở thành cái “anh” mà tôi tưởng tượng đang ngồi
nghe chú kể chuyện, kể về những nhân vật tôi yêu thích. Tôi cũng sẽ kể chú nghe
những câu chuyện tuổi thơ của mình như đang kể với một người bạn lớn. Và nói với
chú rằng: “Con thích đọc truyện của chú lắm, chú Ánh ơi!”.
TRẦN THỊ DIỄM
(Quảng Nam)