Hẳn là bạn sẽ nghĩ Charlie Bone ẩu thật khi để mất cha nó lần thứ hai, nhất là vào lúc nó chỉ vừa mới tìm thấy cha. Họ đã cách mặt mười năm ròng – những năm bị ếm yêu thuật, chú Lyell Bone chìm đắm trong sự quên lãng, không thể nhớ gì về quá khứ, thậm chí kể cả tên của mình cũng quên
Lần này, chí ít Charlie cũng biết cha mình đi đâu. Ba nó đang đưa mẹ nó đi hưởng tuần trăng mật lần thứ hai. Còn gì sung sướng hơn lánh xa những ngày tháng Hai âm u, lạnh lẽo để đi xem cá voi và cá heo nô giỡn ngoài biển rực nắng? Tất nhiên họ rủ Charlie đi cùng, nhưng nó đã ý nhị từ chối. Cha mẹ nó cần được ở bên nhau, ngoài ra, ở nhà nó còn mấy việc phải hoàn thành. Có vài điều bí ẩn cần làm sáng tỏ.
Lúc này đây Charlie đang ở ngoài cổng ngôi nhà nơi nó chào đời. Đó là một tòa nhà gạch đỏ, mái lợp ngói nghiêng dốc, có bốn bậc thang dẫn lên cánh cửa trước màu xanh da trời. Charlie và mẹ đã rời ngôi nhà này khi nó 2 tuổi, thành ra nó chả nhớ chút gì về chốn này. Ngay như cái tên nhà cũng lạ lẫm đối với nó: “Góc Kim Cương” – tọa lạc trên góc phố Diamond và đại lộ Lyme.
Bây giờ Charlie đã 12 tuổi – một thằng bé cao trung bình, tóc đen bù xù và mắt nâu màu quả óc chó. Một thằng bé bình thường về mọi phương diện, ngoại trừ một điều: nó là người-đi-vào-tranh, một tài phép nó thừa hưởng từ Vua Đỏ huyền thoại.
Đứng bên cạnh Charlie là một người đàn ông cao lớn, nét mặt rắn rỏi, đẹp như tạc và mái tóc đen thẳng, dài gần chấm vai. Ông mặc áo khoác đen, dài và trùm chiếc mũ đen rộng vành sụp hẳn xuống, dường như để che kín mắt, mặc dù trong buổi chiều thứ Bảy u ám này không có lấy một tia nắng mặt trời yếu ớt nhất.
“Phải sửa nhiều đây,” người đàn ông nhận xét, nhìn những lỗ hổng đen ngòm trên mái nhà, nơi những miếng ngói lợp bị tốc mất.
“Ước gì con có thể dọn vào đấy ở ngay, Ông cậu Paton à,” Charlie nói.
“Con không phải đợi lâu nữa đâu,” Ông cậu bảo nó. “Tuần tới là thợ xây, thợ sơn, thợ ống nước, và thợ lợp mái sẽ bắt đầu tu sửa mà.”
“Chúng ta vào xem chút đi.” Charlie mở cổng và bước trên lối đi hẹp cỏ mọc tràn lan. Ông cậu nó theo sau, leng keng một chùm chìa khóa. Khi vào gần hơn, họ nhận thấy có ánh đèn ở một trong những cửa sổ tầng dưới.
“Có người trong đó.” Charlie chạy ào lên tới cửa. Ông cậu đang ở sau nó một bước liền phóng vèo qua các bậc thang và tra một chiếc chìa khóa vào ổ. Cánh cửa xanh da trời mở tung và Charlie bước vô trong.
Mùi cũ mốc nồng nặc trong hành lang. Ván lót sàn ẩm, bám kịt bụi, những mảnh giấy dán tường bong tróc dính lủng lẳng trên các bức tường nhem nhuốc, đen xì. Charlie cố nhón chân nhẹ hết sức, nhưng những tấm ván trần trụi cứ rung lên kèn kẹt dưới từng bước đi của nó. Nó vội vàng mở một cánh cửa bên trái và ngó vô căn phòng hồi nãy nó thấy có ánh sáng. Trống huơ trống hoác. Ông cậu Paton hất đầu ra hiệu về phía cánh cửa khép hờ ở phía kia căn phòng. “Nhà bếp đó,” ông thì thào.
Một tiếng chân được nghe thấy. Khó mà biết nó từ đâu vọng tới. Charlie băng xoẹt qua căn phòng, những bước chân nặng nề của ông cậu bám theo. Nhưng cả nhà bếp cũng trống trơ. Một tiếng “rầm” đanh, gắt, làm Charlie lao bắn vèo qua nhà bếp, vô lối đi hẹp. Cánh cửa sau mở toang, xô đánh ầm vào bức tường phía sau nó một tiếng rung chuyển nữa. Một luồng khí lạnh ập vào mặt Charlie khi nó nheo mắt dòm ra ngoài trời. Vừa vưa kịp lúc cho nó thấy hai bóng đen chui lẹ qua quãng hàng rào gãy ở cuối vườn.
“Hê!” Charlie hét lớn, chạy bươn qua thảm cỏ và những cây dại cao khô héo. Tới hàng rào, nó nhoài người ngó ra ngõ hẹp tí rị. Nhưng kẻ đột nhập đã biến mất.
“Chắc là những kẻ lang thang.” Ông cậu Paton đá vào một chồng báo cũ ở góc nhà. “Về thôi, Charlie.”
“Cho con lên lầu đi?” Charlie năn nỉ. “Con muốn xem mình có nhớ căn phòng mình từng ngủ hay không.”
“Thì đi.” Ông cậu Paton theo Charlie lên cầu thang. Khi ông lên tới nơi, Charlie đang đứng nhìn trân trối vào hai cánh cửa trước mặt nó. Có thêm hai cánh cửa bắt đầu một hành lang ở bên trái nó, rồi một cánh nữa ở bên phải. Nó chọn một cánh.
“Con nhớ giỏi quá, Charlie!”
“Con chỉ đoán thôi,” Charlie nói. Nó đẩy mở cánh cửa đó ra. “ỐI!”
Không thể đi được bước nào vô phòng. Tất cả ván lót sàn đã bị dỡ sạch. Tấm thì dựng đứng vào tường, những tấm khác lại nằm vắt trên các thanh rầm hẹp đỡ sàn nhà.
“Quái lạ!” Ông cậu Paton ghé nhìn qua vai Charlie. “Ta không biết là thợ xây đã bắt đầu rồi.”
Hai ông cháu nhìn vào những căn phòng khác. Phòng nào cũng trong tình trạng tương tự: ván lót sàn bị giật tung rồi quăng bừa bãi vào góc nhà hoặc vắt vẻo trên những thanh rầm mỏng.
“Trông như ai đó sục sạo tìm vật gì,” Charlie nhận xét.
“Một cuộc lùng kiếm tuyệt vọng,” ông cậu đồng ý. “Ta tưởng tượng họ cũng bứt tung sàn nhà dưới lầu lên, nhưng sau đó đã gắn lại để đề phòng người ta nhìn vô qua cửa sổ.”
“Con không thích nghĩ tới việc người lạ lẻn vô và đào bới nhà cũ của con,” Charlie nói.
Khi đi xuống lầu, họ căng mắt tìm xem có dấu hiệu mặt bậc thang bị bứng đi không. Lần này họ phát hiện mặt gỗ tưa xước, đinh bị nhổ lên và tay vịn xục xịch.
“Thế này thì phải thay hết ổ khóa thôi,” Ông cậu Paton nói khi hai ông cháu trở ra đứng ngoài đường. “Để ta nói chuyện với nhà thầu.”
Họ bắt đầu rảo bộ về ngôi nhà số 9, đường Filbert. Ông cậu Paton mải nghĩ về bọn xâm phạm nên quên bẵng là đèn đường đang sáng. Trước khi Charlie kịp cảnh báo, ông đã vô tình ngước lên và bóng đèn phía trên đầu ông kêu bụp một phát, nổ tung.
Ông cậu Paton chúi người né trận mưa thủy tinh dội xuống đầu mình. “Chán quá! Chán quá!” ông gầm to. “Ai cần làm kẻ tăng áp cơ chứ!”
Ông cậu Paton Yewbeam, một hậu duệ khác nữa của Vua Đỏ, thừa hưởng một tài phép không may. Chỉ cần ông hơi liếc vào một bóng đèn đang cháy, dù nó ở trong cửa sổ, trong nhà dân, trên đường phố, hay tại nhà mình, thì tất yếu nó vẫn cứ tăng sức nóng lên đến độ nổ tan bóng đèn. Vì vậy nên Ông cậu Paton rất ít khi ra khỏi nhà vào ban ngày. Đèn giao thông, đèn xi-nhan ô-tô và đèn cửa sổ bày hàng luôn có nguy cơ hứng chịu tài phép khốn khổ này của ông. Ông thấy điều này thật bất tiện cho mình.
Lần này tai nạn của Ông cậu Paton đã để lộ ra một sự việc. Trong chớp lóe sáng vụt chiếu con đường, hai hình hài bị nhìn thấy đang lúp cúp bên một hàng rào. Khoảnh khắc đó kéo dài không tới một giây nhưng gương mặt họ đã in đậm trong tâm trí Charlie. Trông họ... không hẳn là người.
Charlie chớp mắt trước cơn mưa thủy tinh dội xuống đầu ông cậu. Khi nó mở mắt ra thì hai hình hài đó đã biến mất.
“Mau lên, Charlie, chúng ta mau ra khỏi đây kẻo có người thấy chúng ta.” Ông cậu Paton chộp cánh tay Charlie và lôi nó đi khỏi hiện trường.
“Có người đã nhìn thấy chúng ta rồi, Ông cậu Paton. Con nghĩ đó có thể là bọn họ. Tức những kẻ đột nhập nhà con. Nhưng họ không hẳn là người. Nếu ông hiểu ý con.”
“Ta không hiểu.” Ông cậu Paton túm chặt cánh tay Charlie hơn. “Nhanh lên! Nhanh ra khỏi đây!”
Charlie thấy mình bị lôi xệch qua đường. Một chiếc xe lao tới bóp một tiếng còi cảnh báo và Ông cậu Paton vội giật nó lên vỉa hè.
“Con bảo không-hẳn-là-người nghĩa là sao?” Ông cậu Paton kéo thụp vành nón xuống. Bây giờ cả mũi của ông cũng bị che khuất.
“Họ quái đản lắm, Ông cậu Paton,” Charlie thở hồng hộc. “Con không thể giải thích.”
“Cố lên,” ông cậu ra lệnh. “Ta muốn biết chúng ta đang đối phó với loại sinh vật gì.”
Ông cậu Paton đi tiếp với tốc độ lướt gió thường lệ của mình. Charlie phải cắm cổ chạy từng chặp cho kịp ông. “Chân ông dài gấp đôi chân con.”
“Ta muốn ngăn cách mình với đèn đường,” Ông cậu Paton gắt. Ông rẽ một góc phố và chậm bước lại. “Nào, cố lần nữa coi. Cái gì khiến họ không phải là người, Charlie?”
“Trước tiên là họ có lông. Rồi mắt họ... mắt họ, à, con nghĩ khác xa mắt người. Chúng giống mắt chó... hoặc, hoặc...”
“Sói?” ông cậu gợi nhắc.
“Chắc vậy,” Charlie thận trọng. “Nếu mắt sói màu vàng.”
“Hừm. Sao ta có linh cảm nhà Bloor liên quan tới vụ này? Nói ta coi, ba của con có nhắc đến việc để lại vật gì đó ở ngôi nhà cũ không?”
“Không ạ. Nhưng có rất nhiều thứ ba con đã quên rồi.” Charlie mỉm cười một mình. Ba nó nhớ tên mẹ nó và tên ba là đủ. “Tuy nhiên, trí nhớ của ba con đang dần trở lại. Mỗi ngày lại có một điều mới bật khỏi đầu ba. Có lẽ khi đi nghỉ về, ba con sẽ phục hồi hoàn toàn.”
“Và đó là điều bọn chúng lo sợ.” Ông cậu Paton dừng khựng lại.
“Ai ạ? Cái gì cơ?” Charlie hỏi.
“Nghe này, Charlie. Ai nấy tin rằng Manfred Bloor thôi miên ba của con là bởi vì chú ấy gây tai nạn cho lão Ezekiel. Nhưng ta ngẫm thấy còn nhiều lý do hơn thế nữa. Ta tin là ba của con đang giấu một vật mà gia đình Bloor muốn có. Rất có thể bọn chúng hy vọng là dưới sức thôi miên, chú ấy sẽ tiết lộ nơi cất nó. Nhưng điều này không xảy ra. Đến bây giờ họ lại sợ ba của con sẽ nhớ và tìm ra cái vật đó trước bọn họ.”
Charlie không thể hình dung nổi điều gì khiến ông cậu đi đến kết luận như vậy. Nhưng đầu óc Ông cậu Paton vốn hay lần tìm vấn đề. Ông đang viết lịch sử Vua Đỏ, và căn phòng riêng của ông chật cứng những quyển sách khổng lồ về tất cả những đề tài Charlie từng nghe nói tới, cũng như về biết bao điều nó chưa từng nghe bao giờ.
Đường Diamond nằm ở ngoại ô thành phố, Charlie và ông cậu phải đi bộ gần một tiếng mới về tới nhà. Lúc đó bóng chiều đã ập xuống và sương mù dày đặc đang bò qua các con phố. Thật lạ, không khí thoảng mùi muối, mặc dù biển cách xa nơi này ít nhất là 30 dặm.
Bà ngoại của Charlie, ngoại Maisie, đón họ tận cửa. Vẻ mặt bà như vừa bị choáng sốc ghê gớm. “Bà Bone về rồi,” bà thì thầm, tắt đèn hành lang đi, ngăn ngừa Ông cậu Paton gây tai nạn.
“Về rồi?” Ông cậu Paton nói to. “Cái quái quỷ...”
“Suỵt!” ngoại Maisie đưa một ngón tay lên môi. “Vào nhà đã.”
Charlie và ông cậu theo ngoại Maisie vào nhà bếp. Bàn ăn đã dọn sẵn và trong khi múc súp ra ba cái tô, ngoại Maisie kể cho họ nghe về chuyến trở về đột ngột của nội Bone.
Nội Bone là chị gái của Ông cậu Paton. Hơn ông tới hai mươi tuổi và họ chẳng bao giờ thuận hòa với nhau. Bà ta thậm chí còn không ưa người con trai duy nhất của mình, tức là ba của Charlie. Ngay khi chú ấy trở về sau mười năm bị cầm tù trong học viện Bloor, nội Bone liền khăn gói ra đi – đến sống với ba cô em gái ở cuối một con hẻm tối tăm, bất ổn tên là Ngách Tối. Charlie đã hy vọng sẽ không bao giờ phải nhìn thấy bà ta lần nữa chứ.
“Mụ ta vẫn còn giữ chìa khóa,” ngoại Maisie kể. “Mụ hùng hổ đi vào, thảy phịch giỏ vô hành lang và hét ‘Ta về lại!’ ‘Sao vậy?’ ta hỏi. Hừ, thoáng nhìn đã biết có điều không ổn rồi. ‘Ai cũng nghĩ chắc là bà tiếc lắm,’ mụ nói. ‘Đúng thế. Tôi tưởng bà dọn đi hẳn chứ,’ ta liền đáp như vậy.”
Charlie bật cười khúc khích.
Ông cậu Paton hỏi, “Nhưng lý do của bà ta là gì, bà Maisie? Tại sao bà ta trở về?”
“Vì đám cưới!” ngoại Maisie nói.
“Cưới ai?” Ông cậu Paton hỏi vội.
“Em út của mụ,
Charlie bị sặc súp. “Bà cô
“Có đấy, Charlie cưng,” ngoại Maisie nói. “Nhưng chẳng mấy chốc gã đàn ông tội nghiệp đó sẽ hối tiếc về ngày này cho mà xem.”
“Quái lạ,” Ông cậu Paton nhìn ngoại Maisie trân trân, không tin nổi.
“Nội Bone rất cáu tiết,” ngoại Maisie kể tiếp, “Nhưng hai bà em kia thì ủng hộ hoàn toàn.”
“Phùù.” Ông cậu Paton thổi súp của mình, chắc hẳn nó đâu có nóng, bởi vì ông đã nuốt chửng gần chục muỗng rồi mà đâu kêu ca gì. Ông đang cố không để lộ ra, nhưng ai cũng có thể thấy ông đang cực kỳ hoang mang và bàng hoàng thật sự.